654- LÝ LUẬN CỦA ĐẠI THỪA
(00:34) Câu
trả lời thứ hai: Là đối tượng nghe pháp là những người tha thiết tu hành cầu giải
thoát còn người mà tu danh tu lợi thì không nên cho nghe, nghĩa là những cái
băng của Thầy thì các con muốn cho ai mà nghe băng của thầy, thì nên chọn cái
người tha thiết tu hành để tìm cầu sự giải thoát, còn thấy người ta thí dụ như
một vị tu sĩ mà họ ở trong một cái Chùa to họ sống danh sống lợi mà họ không có
tâm tha thiết thì chúng ta không nên cho. Nhưng mà cái người đó cũng ở trong một
cái Chùa to, Phật lớn, nhưng họ có cái tâm quyết muốn tìm cái sự giải thoát hơn
là sống trong cái Chùa to Phật lớn đó, thì mình biết được cái tâm ý đó thì mình
cho họ nghe băng để cho họ tìm thấy con đường Chánh pháp của Phật sống phải
buông xả. Do vì vậy mà tìm cái đối tượng đáng cho nghe, thì cho nghe còn không
đáng cho nghe thì không nên cho nghe. Vì mình cho nghe người ta đang sống và
đang chấp cái danh cái lợi thì đương nhiên người ta sẽ khổ tâm cái thứ nhất.
Cái thứ hai vì người ta khổ tâm cho nên người ta mới tìm cách chống đối lại
chánh pháp của Phật.
Như vừa rồi
thì các con được cô Út trao cho cái tập giáo trình tu tập ngắn gọn, rút ngắn gọn
lại để cho các con thấy rằng cái phương pháp tu rất là ngắn gọn của Phật. Từ
cái pháp ngăn ác, diệt ác, cho đến cái pháp Tứ Niệm Xứ là trên Tứ Niệm Xứ để
ngăn các chướng ngại pháp, nó ngắn gọn mà Thầy đã thu ngắn lại còn một trang giấy
mà thôi, nó không có nhiều nữa. Thế rồi chúng ta có hai pháp: Một cái pháp đầu
tiên đó là Tứ Chánh Cần, một cái pháp cuối cùng để chứng đạo đó là Tứ Niệm Xứ.
(02:29) Thế
mà có người lại bảo rằng Tứ Niệm Xứ không phải là niệm lực mà chính lời đức Phật
thích ca đã dạy: “Niệm Lực chính là Tứ Niệm Xứ, Tứ Niệm Xứ chính là niệm
lực, mà Tứ Niệm Xứ chính là Chánh niệm”, ở trong bát chánh đạo nó là
Chánh niệm. Cho nên những cái điều này đức Phật thích ca đã xác nhận rất là cụ
thể. Nhưng cái người mà không hiểu thì người ta lại lý luận, nếu mà cái sự lý
luận của họ mà chúng ta không đủ trí thì chúng ta nghe có lý rồi chúng ta thấy
dao động làm cho chúng ta không biết đúng hay sai.
Người ta ví
dụ như Tứ Niệm Xứ là một đống rác, từ cái chỗ đống rác đó một con chó từ đó nhảy
ra, rồi chúng ta cho cái đống rác đó là lực, là niệm lực của con chó thì đó là
sai. Vì cái lực của con chó từ cái đống rác mà nhảy ra, thì là cái cơ của con
chó nhảy ra chứ không chứ không phải đống rác. Cái lý luận như vậy chúng ta đâu
hiểu, phải không? Nếu mà Thầy không luận để cho chúng ta thấy hiểu được Tứ Niệm
Xứ nó có một cái lực rất lớn.
Chúng ta biết
rằng trong các cơ từ cái cơ của chúng ta nó có cái lực, nhưng cái lực của cơ mà
không luyện tập, thì cái lực đó rất yếu mấy con. Cho nên nói niệm lực là cái lực
mạnh chứ không thể nói là cái lực yếu. Nhưng nói niệm lực của Tứ Niệm Xứ là lực
của tinh thần, chứ không phải lực của cơ, mà cái người này họ lấy cái điều đó để
họ bài bác Phật giáo, bài bác kinh sách Phật. Cho nên cái mục đích họ bài bác
nói rằng Thầy giảng sai, không đúng nhưng không ngờ những lời Thầy giảng trong
Đường Về Xứ Phật đều là những lời của đức Phật Thích Ca.
Như đức Phật
Thích Ca nói không có thế giới siêu hình, chỉ là thế giới tưởng, thì điều đó
căn cứ vào những cái bài kinh thật sự của Nguyên Thủy mà Thầy nói lại chứ Thầy
không đặt ra một điều gì, khi mà người ta nói đức Phật cũng nói có cõi trời,
cõi địa ngục, có này kia, thì không lẽ là đức Phật Thích Ca lại mâu thuẫn lại
mình, trong khi cái bài kinh Pháp môn căn bản Ngài đã nói rằng
cái thế giới siêu hình không có chỉ có thế giới tưởng, thì bây giờ Ngài lại nói
có cõi trời này có cõi trời kia, thì dù Ngài có nói một ngàn cõi trời, một triệu
cõi địa ngục đi nữa cũng vẫn là thế giới tưởng chứ. Tại vì Ngài xác định nó là
thế giới tưởng thì dù Ngài có nói một ngàn lần đi nữa thì vẫn là thế giới tưởng.
Bởi vì nó có cái thế giới tưởng đó thật chứ đâu phải không, nhưng thế giới tưởng
đó là cái thế giới của mình tự lưu xuất ra, chứ không phải có cái thế giới
khách quan ở bên ngoài, cho nên người mà nói rằng có thế giới siêu hình thì đã
là phản lại với cái giáo lý, cái lời dạy của đức Phật Thích Ca.
(05:30) Cũng
như người đó nói rằng Tứ Niệm Xứ là không phải là niệm lực, mà niệm lực thì ở
cái cơ của chúng ta mới có cái sức lực chứ không phải Tứ Niệm Xứ. Thầy ví dụ
như một môn võ học, nếu không có một môn võ học thì cái cơ của chúng ta không
thể nào đánh như gió được, phải không? Cho nên nếu mà không có những môn điền
kinh thì cái cơ đó không thể nào bay chạy nhanh nhẹn được, mà phải có sự luyện
tập của cái pháp đó, cái môn điền kinh đó, mà các cái cơ của chúng ta mới có sự
nhanh nhẹn và bay nhảy mới được, thì đó cái sự nhanh nhẹn và bay nhảy đó thì đó
là lực. Đó là về cái lực của cơ bắp, của bắp thịt, nhưng cái lực của bắp thịt
không thể nào làm chủ được cái sự sống chết của chúng ta. Cho nên cái lực của Tứ
Niệm Xứ nó giúp cho chúng ta nó có một cái lực của tâm, cái tâm lực, cái tinh
thần lực của chúng ta nó quá vĩ đại, nó quá siêu việt. Cho nên từ Tứ Niệm Xứ mà
chúng tu thì chúng ta mới có một cái lực của tâm lực, cũng như bây giờ Thầy nói
như hơi thở chúng ta đang thở, nhưng chúng ta nín thở thì không được, vậy mà
chúng ta chỉ có cái tâm lực tức là cái ý muốn của mình thôi, muốn cho hơi thở
ngưng để bỏ cái thân này đi, thì ngay đó cái hơi thở nó ngưng, cũng như cái ý
thức chúng ta đang phân biệt, đang suy tư, đang nghĩ mà nó bảo: “dừng,
diệt ý thức đi”, thì ngay đó tầm tứ nó diệt tức khắc nó ngưng hoàn
toàn, lỗ tai nghe đang nghe âm thanh như thế này, mà cái tâm lực đó nó sẽ làm
cho cái lỗ tai không còn nghe, âm thanh lớn như trời sét nó cũng không nghe, tiếng
bom nổ nó cũng không nghe, thì chúng ta phải thấy nó có cái lực chứ, mà cái lực
đó nó đâu phải là cái cơ làm, cái cơ của chúng ta làm không được, mà đó là lực
của tâm, nó vô hình mà nó rất mạnh.
Mà từ đâu mà
chúng ta luyện tập có cái lực đó, có phải Tứ Niệm Xứ không? Do Tứ Niệm Xứ mà nó
có, vì vậy mà đức Phật xác định Tứ Niệm Xứ là niệm lực. Cho nên trong bài kinh
Ngũ lực nếu mà ai không học kinh Ngũ lực thì người ta không biết lực. Đức Phật
có xác định năm cái lực chứ không phải một lực, thì năm cái lực đó là: Tín lực,
Tấn lực, Niệm lực, Định lực, Tuệ lực.
(07:51) Mà
mỗi một cái lực thì đức Phật xác định cho nó mà, nếu muốn tu tập được cái lực
đó thì phải tu tập cách gì? Tu tập cái pháp nào?
Cho nên nói
về Tín lực thì đức Phật nói Tứ bất hoại tịnh, phải tu pháp Tứ Bất Hoại Tịnh.
Mà nói về Tấn
lực thì đức Phật nói phải tu Tứ Chánh Cần, chứ không thể nào tu Tứ Bất Hoại Tịnh
mà gọi là Tấn lực được.
Mà nói Niệm
lực thì phải tu Tứ Niệm Xứ, thì cái niệm lực, cái tâm lực của chúng ta mới có,
chứ không thể nào nói tu Tứ Bất Hoại Tịnh mà có được.
Mà nói Định
lực thì phải tu Bốn thiền, tức là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền… mới có Định
Lực. Nếu mà tu ngoài cái pháp môn này thì không có định lực, vì vậy mà chúng ta
tu cái Bốn thiền này nó mới có cái định lực, vì cái định lực đó mà nó mới làm
chủ được hơi thở chúng ta, bảo nó ngưng là nó ngưng, phải không? Chúng ta thấy
rất rõ đức Phật đã xác định được cái pháp môn của mình rất cụ thể.
Mà nói Tuệ lực
thì đức Phật nói Tứ Diệu Đế: Khổ, Tập Diệt, Đạo. Nếu mà cái trí tuệ của chúng
ta có một cái lực, là chúng ta ngay khi biết cuộc đời là khổ là chúng ta đã
nhàm chán nó liền rồi, vì chúng ta chưa có lực thì chúng ta biết khổ mà chúng
ta chưa có bỏ được, còn nếu có lực là chúng ta ngao ngán quá. Thực sự thì đời
khổ thật, nhưng mà chúng ta biết nhưng mà chúng ta chưa có lực, phải không? Cho
nên vì vậy mà chúng ta cứ lằng nhằng mà không có dứt bỏ được, không có cạo bỏ
râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia sống không nhà cửa, không gia đình như đức Phật
được. Cứ lo nghĩ rằng mình sống đây rồi rài đây, mai đó du Tăng khất sĩ như vậy,
rồi lạnh, rồi lẽo, rồi không, mưa gió lấy cái gì mà sống được có ba y một bát
như thế này làm sao sống. Mình cứ lo lắng, lo lắng ngờ ngợ mình không dám buông
bứt. Vì vậy cho nên mình cứ lằng nhằng rồi vợ rồi con, rồi cha rồi mẹ rồi anh
em, không biết giải quyết cách nào để cho mình dứt khoát, để cho mình được giải
thoát hoàn toàn.
Do như vậy
mình mới thấy rằng nếu một cái người mà có lực ở trong cái Tuệ lực, cái sự hiểu
biết, cái trí tuệ hiểu biết của cái lực này thì ngay Khổ Đế, ngay cả cái nguyên
nhân mà tập hợp những cái khổ, rồi ngay cả cái Niết bàn, cái cảnh giới, cái trạng
thái mà giải thoát, ngay cả cái Bát Chánh Đạo tám cái nẻo Đạo Đế, ngay cả tám
cái nẻo để vào đạo thì người đó đã có một cái Tuệ lực rồi, thì cái người đó
ngay đó là họ đã chứng đạo liền tức khắc. Khi đức Phật sáng nói, chiều là họ đã
chứng đạo rồi, nếu cái người có Tuệ lực.
Còn chúng ta
sáng nghe chiều đâu có chứng đạo. Phải tu, tu hết sức mà còn bảy ngày chưa chứng,
rồi bảy tháng chưa chứng, mà chỉ đến cuối cùng bảy năm chúng ta mới chứng, thì
đủ biết chúng ta chưa có Tuệ lực, chưa có Tuệ lực chút nào. Nếu mà Tuệ lực
chúng ta có thì sáng nghe thì chiều chúng ta đã chứng quả A la hán, chúng ta bỏ
hết, đức Phật nói không sai đời khổ, thế mà chúng ta biết khổ nhưng bỏ không được.
Còn cái người mà có Tuệ lực nghe biết khổ là ngay người ta bỏ hết, người ta thấy
không còn muốn níu nó chút nào hết, đó là những cái bậc người ta sắp sửa chín
mùi rồi.
(10:55) Cho
nên ở đây người ta khéo lý luận rồi chúng ta không đủ cái sức tu tập cái trí tuệ
chúng ta sẽ bị người ta che khuất đi, cũng như từ khi mà cái bộ sách Đường Về Xứ
Phật chưa ra đời, thì những gì mà Đại thừa nói chúng ta không đủ trí tuệ mà
phán xét cái sai của nó ở trong đó, cho nên chúng ta cứ tin tưởng rồi chúng ta
cứ theo mà nỗ lực tu tập, nhưng cuộc đời của người này, rồi đến cuộc đời của
người khác, từ ông cha của chúng ta cho đến con cháu và thế hệ mai sau, nhiều
người sau nữa, cuối cùng chúng ta chẳng đi đến đâu, và càng ngày càng chồng chất
thêm sự mê tín biến Phật giáo thành thần giáo, biến Phật giáo thành một cái tôn
giáo mê tín. Mà bây giờ chúng ta nhìn lại, chúng ta mới giật mình mới thấy được
cái sai của nó. Nếu Đường Về Xứ Phật không ra đời, chắc chắn chúng ta khó thấy
được cái phi đạo đức của những giáo pháp này.
Nó ra đời là
vì nó có đủ trí tuệ phán xét được, nó mới ra đời để giúp chúng ta có cái nhìn
đúng. Và bây giờ hiện giờ người ta muốn đốt sạch cái bộ sách này để làm cho mọi
người không còn thấy được cái sai của nó nữa. Thì thử nghĩ người ta sẽ làm như
thế nào, người ta sẽ có những cái lý luận mà với cái trí tuệ của những người
khác không thể nào so sánh được, như cái lý luận lúc nãy mà một con chó từ đống
rác nhảy ra, chúng ta bảo rằng đống rác có cái lực thì chắc chắn chúng ta sẽ
nghĩ rằng lời nói đó không đúng, mà như vậy rõ ràng người ta chứng minh như vậy
người ta bảo rằng Tứ Niệm Xứ không có lực, mà chỉ có lực là nơi cơ bắp của
chúng ta mà thôi, nghĩa là chúng ta phải nỗ lực tinh tấn tu. Nhưng mà không ngờ
Tứ Niệm Xứ lại là một pháp môn có một cái lực vi diệu nếu chúng ta luyện tập
đúng nó. Cho nên ở đây chúng ta phải thấy rằng những cái lời của đức Phật xác định
là những cái lời rất đúng nếu không thì chúng ta sẽ nhầm lẫn và chúng ta sẽ phỉ
báng đức Phật. Và khi phỉ báng đức Phật xem như là không đúng, thì lúc bấy giờ
chúng ta không muốn đi để mà giải thoát.
(13:04) Những
băng mà Thầy giảng hầu hết là trong cái giai đoạn này, thì mấy con phải cẩn thận
cho những người khác nghe. Thật sự ra phải chọn những người xứng đáng mà cho
nghe. Thứ nhất là không tạo cho họ tội vì họ nghe họ bị kiến chấp, thì tức là họ
sẽ nổi sân lên mà tự họ làm khổ. Cho nên có một người Phật tử gửi một bức thư đến
Thầy, khi họ ở tại thiền viện của Hòa thượng thì họ thấy rõ ràng, khi một cái
điều gì trái ý với quý thầy tu mặc dù họ ngồi hai ba tiếng đồng hồ, họ ngồi thiền
được hai ba tiếng đồng hồ nhưng mà trái ý thì thấy tâm tham, sân, si họ vẫn còn
bột phát hiện rõ ràng, như vậy họ mới nghĩ rằng, họ mới gửi thơ đến nghĩ rằng,
người mà tu mà được hai ba tiếng đồng hồ ngồi như vậy không phải là dễ dàng, chịu
đau chịu đớn rất lớn là có tâm tha thiết tu hành, thế sao tâm tham, sân, si
không hết mà lại giận?
Khi thí dụ
như chẳng hạn là họ đã đọc ngay một trang sách của Thầy thôi là họ không dừng
được, họ phải ném cuốn sách Thầy xuống đất liền tức khắc, thì chứng tỏ rằng họ
không bình tĩnh được, như vậy trong khi họ ngồi tu hai ba tiếng đồng hồ đó cái
kết quả ở chỗ nào? Tại sao họ không bình tĩnh để đọc suốt một cuốn sách của Thầy
viết, mà họ không đủ can đảm để mà đọc hết, như vậy rõ ràng là Kiến kiết sử hay
là kiến chấp của họ quá sâu dầy.
Cho nên sự
tu tập là sự giải thoát, còn trái lại một người tu tập mà xả tâm dù là họ chửi
mắng mình, mình vẫn bình tĩnh không giận hờn, thì như vậy mới biết rõ ràng là
mình biết xả tâm. Còn nếu người ta mắng chửi mình, người ta mạ nhục mình, người
ta nói nặng nhẹ mình mà mình không bình tĩnh, mình vừa đọc là ném, thì như vậy
rõ ràng là mình có hết sân, hết phiền não chưa? Như vậy chính tỏ mình tu mà kết
quả đi về đâu đây?
Cho nên cái
người viết bức thư cho Thầy họ đã chứng kiến được điều này, và vì vậy họ nói
như thế này: ở trong Chúng có những điều kiện gì mà xích mích hoặc trái ý họ đến
thưa với Hòa thượng thì hòa thượng nói rằng: người nào thưa là người đó có lỗi,
cho nên họ đành im lặng mà trở về để ức chế thân, ức chế tâm họ. Và như vậy họ
có giải quyết được những gì đâu và cứ ôm ấp nén, càng nén càng chịu đựng, coi
như ngoài mặt thì bình thường, nhưng bên trong nó là một lò lửa đang bừng cháy,
đó là một cái sự ức chế tâm thực sự khi họ đã chứng kiến và họ đã tu tập ở nơi
đó họ thấy, như vậy họ mới nghĩ rằng: nếu Vua nói không bao giờ Vua nói sai được
và vì vậy thì nhân loại này quá thiệt thòi. Chúng ta thấy mà thấy một nhà Vua
mà trong một lúc một nhà Vua ai dám nói một nhà Vua sai bao giờ, nhà Vua cái gì
cũng đúng hết. Do đó thì con người sẽ khổ biết nhường nào, nhưng chúng ta nghĩ
rằng đây là cái duyên thôi, nhân quả của chúng ta chưa đủ thì chúng ta phải gặp
những điều không may, nhân quả chúng ta tốt, thiện đủ thì chúng ta gặp những điều
may mắn. Trên bước đường tu học là một điều rất khó chứ không phải dễ, sống từ
giới luật cho đến mọi thứ mà chúng ta không thực hiện được thì chúng ta không xả
tâm được thì con đường thiền định chỉ là một danh từ suông chứ không thể nào đi
đến được.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét