Thứ Năm, 14 tháng 3, 2024

641-QUÁN THÂN TRÊN THÂN THEO OAI NGHI ĐI, ĐỨNG, NẰM/ 1

 

641-QUÁN THÂN TRÊN THÂN THEO OAI NGHI ĐI, ĐỨNG, NẰM/ 1

Kính thưa Thầy, sau mười ngày tu tập quán thân trên thân theo pháp 4 Niệm Xứ, bản thân con gặp trở ngại vì thiếu căn bản nhiếp tâm và an trú tâm trên hơi thở trong thời gian tối thiểu 10 phút theo lời Thầy dạy, nên ngồi tu 4 Niệm Xứ không đạt kết quả đúng yêu cầu. Vì vậy, con kính xin Thầy cho con trở lui tu tập để nhiếp tâm cho được trên hơi thở và tiến lên an trú tâm trên thân hành. Sau khi hoàn toàn làm chủ hai công hạnh này, con sẽ xin tu 4 Niệm Xứ trở lại.
Ở đây mình mới tập quán thân, coi quán được hay không. Nó quan trọng là ở chỗ QUÁN THÂN. Quán thân là cảm giác toàn thân chứ không phải là đứng ở một điểm nào trên thân, mà phải ở toàn thân. Đó là điều quan trọng của sự tu tập Tứ Niệm Xứ, “Quán thân trên thân để khắc phục tham ưu”. Khi quán được thì nó nhiếp phục được niệm, không còn một niệm gì hết, bởi vì pháp Tứ Niệm Xứ đặc biệt vô cùng.
Mới đầu vô tu Tứ Chánh Cần, ngăn ác diệt ác thì gồm bốn pháp đủ trong đó: Định Niệm Hơi Thở, Định Sáng Suốt, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác và Định Vô Lậu. Khi tới Tứ Niệm Xứ thì đã li dục li ác pháp rất nhiều, chỉ còn ác pháp vi tế thôi, vì vậy khi trên thân quán thân thì chỉ cần nhìn tổng quát cái thân là đã nhiếp phục hết tất cả mọi ác pháp.
Quán thân quan trọng như vậy cho nên cần tập quán cho được. Quán thân là Chánh Niệm, nó ở lớp thứ 7. Phải quán cho được, nếu quán không được thì coi như không tu Tứ Niệm Xứ được. Mà phải tu Tứ Niệm Xứ trong 4 oai nghi, bởi tứ niệm xứ có đủ trong 4 oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi; chứ không thể chỉ tu trong một oai nghi được. Mỗi oai nghi đều quán quán toàn thân được hết.
Con phải nhân ra cho được, quán cho được vì quán toàn thân rất quan trọng.
Bây giờ con tập ngồi con cảm giác hết toàn thân của con mà không bị tưởng. Thí dụ con nương vào hơi thở mà nếu con thấy hơi thở luồng trong thân, thế là không được. Phải như con dùng đôi mắt nhìn ngón tay, con thấy từ đầu ngón tay tới chân ngón tay. Đó là quán toàn ngón tay của con. Quán thân cũng vậy, nhưng không cúi xuống nhìn thân. Quán mà cứ cúi xuống nhìn thân thì không đúng, vì khi nhìn xuống thì chỉ mắt con thấy cái thân.
Còn khi cảm nhận cái thân thì tâm quay vô, có dạng tâm của tâm quay vô, do đó tâm mình không phóng dật, quay vô thì không phóng dật. Tâm quay vô quan sát trên thân không ngưng nghỉ suốt trong thời gian tu thì nó nhiếp phục được tham ưu. Cho nên tâm không phóng dật là tâm đã nhiếp phục được tham ưu, vì vậy đức Phật nói “Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật” . Con thấy câu nói này và khi con quan sát thân thì thấy đúng như thế, cái tâm quay vô thật, nó nhìn cái thân của nó, không phải nhìn bằng mắt. Con ngồi bình thường mà cảm nhận cái thân tức là ý thức của con nhận ra toàn bộ thân của con.
Thầy nói nương vào bước đi là khi đi, cái thân có nhiều chuyển động theo chuyển động của chân nên cảm giác toàn thân rất dễ. Cho nên khi ta ôm pháp Tứ Niệm Xứ tu 1, 2, 3 giờ liên tục, không có một niệm nào xẩy ra. Nó an ổn vô cùng.
Còn khi Thầy nói nương vào hơi thở là khi ngồi con cảm nhận toàn bộ thân của con rung động theo hơi thở vô ra. Lúc đó làm như có hai phần: phần thân con đang ngồi và phần khác đang nhìn, đang theo dõi không rời toàn bộ thân con đang ngồi, đang hít thở, đang rung động theo hơi thở.
Khi quán được thì nhiếp vào thân rất là nhanh chóng. Nhưng khi quán không được thì nay trật cái này, mai trật cái kia; rồi khổ nổi thay vì lấy thân hành để quán sự rung động của thân, như lời đức Phật dạy “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân tôi biết tôi thở ra”, hoặc là “Cảm giác thân hành tôi biết tôi hít vô; cảm giác thân hành tôi biết tôi thở ra”; tức là đức Phật đã gợi ý cho mình biết trên thân quán thân, thì mình lại chế ra cách này kia.
Như bên nữ, theo các thư gởi cho Thầy, thì phần nhiều là họ tu theo lối Chuyển Pháp Luân của ngoại đạo, cứ dẫn ý chạy lên trên đầu, thở ra; rồi chạy xuống chỗ này chỗ kia, vòng vòng, nhiều khi lại còn tác ý nữa, tác ý theo tưởng luồng hơi đi tới đầu, chân, đầu gối... đặng cho nó nhớ. Cách thức đó là cách thức Chuyển Pháp Luân của ngoại đạo, không phải là pháp của đức Phật.
Không được. Tập như vậy đâu đúng. Thầy bảo tập phải cảm nhận cho được toàn thân, không phải điểm này, điểm kia, cũng không phải phần này phần khác.
Tập được như vậy thì mới tu Tứ Niệm Xứ được. Nếu không được thì trở về tu tâm xả.
Tu tâm xả thì ngồi chơi mà có niệm gì, có chướng ngại gì thì đuổi như là tu Tứ Niệm Xứ trên 4 Chánh Cần cho chắc ăn. Nhưng khi tâm yên lặng thì nó quay vô quan sát thân nó. Đầu tiên khi mình ngồi thì nó thấy hơi thở, nhưng đừng có bám vào hơi thở, thấy hơi thở thì mặc nó, chỉ quan sát trên thân mà thôi. Thế thì cũng giống như Tứ Niệm Xứ.
Tu tâm xả thì phải biết cách để đừng bám vào hơi thở, chứ cứ bám vào hơi thở là bị ức chế, là trật. Trong khi được tâm yên lặng thì tâm lại bị ức chế, thì lại sai; bởi lẻ trong khi có niệm hơi thở là niệm động, nó động mà mình lúc nào cũng động để đuổi niệm, đuổi cái động đó thì cũng sai, không đúng. Đuổi cái động để cho tâm đi vào cái tịnh thanh thản, an lạc vô sự. Nhưng khi nó thanh thản, an lạc vô sự rồi thì nó ở đâu? – Nó phải ở trên thân, giống như trở về tu Tứ Niệm Xứ, nhưng nếu không biết, thì các con ức chế tâm trong hơi thở thì rất là nguy hiểm.
Vậy thì con tu Tứ Niệm Xứ như thế nào trình lại cho Thầy biết, rồi con ngồi, Thầy lắng nghe cách con tu đúng hay không. Bởi vì khi ngồi quán đúng thì nó không niệm, mà quán trật thì có niệm, quán trật mới có niệm. Quán trật là con biết ngay liền.
Thí dụ con ngồi 30 phút thì không niệm, nhưng nếu con ráng hơn nữa thì sức của con bị yếu, khi quán yếu thì sẽ có niệm vô. Hoặc là con ngồi 2, 3 tiếng đồng hồ mà con thấy có hôn trầm thùy miên tức là tu quá sức của con nên không thể nào con tránh hôn trầm thùy miên được. Do đó tập quán cũng phải tăng lên dần từ từ. Quán được lâu tới đâu thì phải chủ động tới đó, tức là chủ động nhiếp phục tham ưu tới đó. Cho nên nếu con biết tu thay đổi theo 4 oai nghi thì không bao giờ có sự mõi mệt, không bao giờ có sự tê chân hoặc là chướng ngại nào do cảm thọ khổ. Các cảm thọ khổ không có, chỉ có cảm thọ lạc thôi.
Đó, trên Tứ Niệm Xứ là phải tu tập như vậy. Cho nên khi tu tới đâu thì các con biết tới đó, tu được hay không là biết liền. Vô Tứ Niệm Xứ quán thân trên thân để nhiếp phục tham ưu, không bao giờ còn tham ưu, mà chỉ có lạc, nhưng các con cũng không chấp nhận cái lạc mà quên cái quán thân, cho nên lúc nào cũng ở trên thân, thân lúc nào cũng hiện tiền. Và nhanh chóng lắm, nó là một pháp duy nhất mà đi đến cứu cánh, chỉ trong 7 ngày, 7 tháng, 7 năm.
Kinh nói 7 năm nhưng thật ra không tới 7 năm đâu. Khi con nhiếp được đúng 7 ngày tâm thanh thản, an lạc vô sự trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi không bị buồn ngủ, luôn luôn tỉnh táo mà thấy an lạc, nằm xuống nó cũng không ngủ đâu, nó rất tỉnh mà tâm lúc nào cũng ở yên trên thân, thấy từ trên đầu tới chân rất rõ, rất tỉnh, mà thấy nhanh chứ không phải thấy từ từ như khi mình đi.
Nó quan sát thân y như một ngọn đèn từ xa rọi chiếu vào thân, thấy rõ ràng toàn thân mà khi định tỉnh càng cao thì nó thấy thân nó càng rõ ràng hơn. Đó là định tỉnh. Mà đã được định tỉnh thì tâm nhu nhuyến dễ sử dụng, nghĩa là nó bám chặt trên toàn thân để quán thì đương nhiên là nó định tỉnh rồi. Tâm đã định tỉnh thì phải nhu nhuyến dễ sử dụng, chứ không còn khó, vì vậy mà con có đủ 4 Thần Túc.
Bây giờ mình tập quán. Quán được rồi thì mình mới nối tiếp từ oai nghi này tới oai nghi khác. Nối tiếp các oai nghi được trong một giờ, đến hai giờ rồi kéo dài thêm, tăng thời gian lên. Nếu chưa đủ sức nối tiếp các oai nghi như thế mà tăng thời gian lên thì coi chừng.
Con quán thân trong oai nghi ngồi không gián đoạn không niệm khởi trong thời gian 30 phút được rồi, thì con bắt đầu tập quán thân trong oai nghi đi; rồi trong oai nghi đứng; trong oai nghi nằm, oai nghi nào cũng quán được 30 phút hết. Sau đó con tu thay đổi từ oai nghi này sang oai nghi khác. Cứ ngồi 5 phút thì con đứng dậy đi 5 phút; đứng lại 5 phút; nằm xuống 5 phút.
Lúc nào cũng giữ tâm trên thân được như vậy và cứ giữ tiếp tục để cho nó quán thân trên thân liên tục không gián đoạn mỗi khi thay đổi oai nghi, không nhất thiết theo một thứ tự nào. Nằm, ngồi, đi, đứng, oai nghi nào cũng đều quán thân trên thân được không thay đổi, không mất niệm thân.
Sau khi quán được đủ cả 4 oai nghi rồi, nối kết liền lạc được đủ cả 4 oai nghi rồi thì lúc đó mới bắt đầu tăng giờ, chứ chưa nối kết được mà tăng giờ là sai. Không được. Nó sẽ lọt vào trong pháp; trật đi.
Điều chánh yếu là con phải biết quán và quán thân cho được, chứ không thể không quán thân được. Phải quán thân cho rõ ràng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

763-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ.

  763-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ. Kinh sách của Tu viện Chơn Như chỉ kính biếu không bán . Phật tử cần kinh sách của Tu viện Chơn Như...