626-PHÁP TỨ NIỆM XỨ/ 2
Bị phóng dật rồi. Thầm lặng biết là đúng cái trạng thái bất động của nó.
Khi các niệm khác làm chướng ngại thân, làm động tâm thì các con tác ý để đuổi chướng ngại đi. Cho nên đã bị động bởi chướng ngại rồi, đã bị phóng dật vì chướng ngại rồi, bị phóng niệm bởi chướng ngại rồi thì phải tác ý đuổi chướng ngại đi. Trong khi có niệm đến mà không tác ý, sợ tác ý bị phóng dật.
Sợ như vậy là sai. Không đúng. Cái niệm làm cho các con phóng dật rồi, bây giờ muốn cho cái phóng dật đó không còn làm các con bị phóng niệm thì phải diệt. Vậy thì các con phải tác ý để diệt cái phóng dật đó, cái chướng ngại pháp đó. Việc làm đó là đúng. Nhưng khi tâm các con đang quán cái đó mà các con khởi niệm các con đang quán. Việc làm đó là sai.
Chẳng hạn khi con ngồi trên xe chạy trong phố, mắt con thấy các bảng hiệu, tâm con khởi đọc liên tiếp bảng hiệu trên các phố tiệm. Nếu nói trên pháp quán pháp thì việc đọc các bảng hiệu như vậy là sai là tại vì nó phân biệt. Cái tâm dễ bị dính lắm. Khi mắt thấy các bảng hiệu thì tâm muốn đọc để nó hiểu các bảng đó nói gì. Đó là bị dính mắc. Bị phóng dật trên các bảng đó. Còn bây giờ thấy mà không cần đọc, thấy biết có các bảng đó thôi, không cần đọc, như vậy mới là quán pháp theo 4 Niệm Xứ. Cho nên đức Phật mới nói “Ta thành Chánh giác là nhờ tâm không phóng dật”. 4 Niệm Xứ có mục đích để tâm không phóng dật chớ không có gì khác, tức là tâm không buông lung chạy chỗ này, chạy chỗ kia. Phóng dật có nghĩa là buông lung. Không phóng dật là không buông lung. Thấy, nghe... thì chỉ ở trên cái thấy, cái nghe... chứ không buông lung ra thêm cái thấy đó, cái nghe đó... Tức là không phóng dật.
Các con giữ tâm không phóng dật thì các con vẫn thấy, vẫn nghe... như người bình thường nhưng KHÔNG PHÓNG DẬT tức là CHỨNG ĐẠO. Vậy chứng đạo đâu có khó; chứng đạo đâu cần gì phải có thần thông phép tắc.
Nhưng khi tâm không phóng dật thì nó thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì nó phải có 4 thần túc. Các con có luyện thần túc đâu, tại tâm thanh tịnh nó có 4 thần túc như thế. Đó, các con tu 4 Niệm Xứ thì thật tuyệt vời. Ngay chơn lí Diệt Đế là các con đã sống trong đó cho nên tâm không phóng dật rồi.
Lịch sử 4 Niệm Xứ Sáu năm khổ hạnh đức Phật thấy hoàn toàn không có gì lợi ích cho đức Phật hết. Khi đức Phật kiệt quệ không còn đứng dậy nổi, rồi nhờ bát sửa dê của người chăn dê mới tỉnh lại. Hồi tưởng lại kinh nghiệm trạng thái li dục lúc còn nhỏ, khi theo vua cha đi làm lễ khai cày mùa vụ, Phật mới khởi nghĩ ta thử tu li dục li ác pháp có thể chứng đạo chăng, còn tu khổ hạnh như vầy chỉ làm khổ thân xác thôi, không có sự giải thoát hết khổ mà còn làm khổ nhiều hơn. Sau đó đức Phật mới ăn thô thực trở lại, nghĩa là ăn một bữa mà đầy đủ, không ăn ít nữa. Khi cơ thể đã phục hồi sức khoẻ, Phật mới chọn gốc bồ đề, mới ngồi li dục li ác pháp trong 49 ngày thì chứng đạo, không phải những sự tu tập khổ hạnh kia giúp đức Phật chứng đạo đâu.
Không phải đức Phật ngồi dưới cội bồ đề tu hơi thở vô ra để chứng đạo.
Nói vậy không đúng đâu. Các con biết pháp 4 Niệm Xứ là ở chỗ li dục li ác pháp này, khi li thấy rất rõ ràng vì trên thân quán thân thì li đó. Không ai dạy bài kinh này cho đức Phật mà tự Phật suy tìm ra rồi tu.
Trên thân quán thân tức là tự ngồi im lặng thì thấy thân của nó, toàn diện thân. Nhưng khi thấy thân thì nếu trên thân có thọ, khi thấy vậy thì đẩy thọ đó lui. Đẩy lui bằng cách nào? Hồi đó đức Phật đâu biết pháp Như lí Tác ý nhưng Phật muốn cảm thọ đó phải rời khỏi thân nên đức Phật tự nghĩ ra rồi tác ý đuổi cảm thọ. Sau này chúng ta mới được dạy pháp Như lí Tác ý này.
Rồi do thấy được kết quả đuổi cảm thọ đức Phật mới tác ý thêm đuổi từng tâm niệm. Đó là trên thân quán thân, trên thọ quán thọ; dùng cái thân của các con mà thấy được thân thọ do bên ngoài tác động vào thì đức Phật cũng dùng pháp tác ý để tâm không phóng dật, không dính vào các pháp. Cuối cùng đức Phật thấy rõ ràng đây là 4 Niệm Xứ mới dạy cho chúng ta.
Đức Phật từ kinh nghiệm bản thân rút ra bài 4 Niệm Xứ chứ trước kia làm gì có được. Chính đức Phật tu 49 ngày dưới cội bồ đề là tu 4 Niệm Xứ, chứ không có pháp nào nữa hết. Nói 4 Niệm Xứ là nói 4 Niệm Xứ chứ làm gì có Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền ở đây. Li dục để nó nhập vào chơn lí là tâm bất động tâm thanh thản, an lạc, vô sự chứ đâu phải là vô Sơ thiền. Khi tâm đã thanh thản, an lạc, vô sự thì nó định tỉnh nhu nhuyến dễ sử dụng, lúc bấy giờ mới nhập Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Có đúng không?
Trong bài kinh đức Phật nói vậy, tâm định tỉnh nhu nhuyến dễ sử dụng, cho nên mới nhập Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Rõ ràng đâu phải đi theo hơi thở để nhập Sơ thiền mà vì quán thân thì phải thấy hơi thở chứ.
Không tu hơi thở nhưng tâm quán trên thân thì phải thấy hơi thở.
Hồi còn nhỏ đức Phật đi theo vua cha ra đồng ruộng mới thấy con rắn bắt con nhái, con ó rình bắt con rắn và người thợ săn rình bắt con ó. Phật thấy cả một dọc con vật này ăn thịt con kia. Đó là tâm từ của đức Phật thấy con người cũng như các con vật đều xâu xé nhau. Lúc đó đức Phật mới ngồi lại li dục li ác pháp là những cảnh tượng xâu xé đó. Li ra là ngồi mà những hình ảnh xâu xé đó làm tâm đức Phật xót xa nên mới vô tình tác ý bảo tâm xót đau đó li ra. Không dè tác ý như vậy mà Phật cảm thấy tâm hết đau xót, được an tịnh. Nhờ kinh nghiệm đó mà sau khi đức Phật tu khổ hạnh đến độ cơ thể kiệt quệ rồi được phục hồi nhờ một bát sữa dê, Phật mới nhớ lại và suy nghĩ “Phải chăng li dục li ác pháp như vậy có thể được giải thoát”. Phật suy nghĩ thôi chứ chưa chắc đã được, nhưng có kinh nghiệm từ hồi bé tự tìm thấy một cách tình cờ mà được an tịnh, hết nổi đau xót trong tâm. Cho nên sau khi ăn thô thực trở lại, không tu khổ hạnh nữa, không hành hạ xác thân nữa, Phật mới ngồi xuống ở cội bồ đề và phát nguyện “Nếu ta tu pháp li dục li ác pháp này mà không chứng đạo thì ta sẽ chết tại dưới cội bồ đề này”.
Tất cả các pháp tu trong thời đó đức Phật đã tu tới mức cao nhất, tột cùng nhất, kể cả những pháp khổ hạnh Ngài cũng tu đến mức tột cùng không thể có người nào tu hơn, vậy mà Phật không chứng đạo thì còn gì nữa mà hi vọng.
Vậy chỉ còn duy nhất pháp li dục mà Ngài tình cờ kinh nghiệm được từ bé, nếu cũng không chứng đạo thì đâu còn mong gì nữa mà sống. Cho nên đức Phật ở đó tu và xác định được những kinh nghiệm hồi bé xưa giúp được tâm li dục li ác pháp đạt trạng thái thanh thản an lạc vô sự của tâm bất động.
Phải biết đức Phật tu cả 4 oai nghi chứ không phải chỉ ngồi thôi như người ta tưởng tượng sai lầm, bởi tu 4 Niệm Xứ là phải tu cả 4 oai nghi. Trong bài kinh Tiểu không, đức Phật nói rất rõ những oai nghi tu 4 Niệm Xứ. Chúng ta dựa vào đó biết rằng qua kinh nghiệm, đức Phật mới đưa ra pháp này, chứ ngoại đạo làm sao biết pháp đó để dạy cho đức Phật. Đồng thời con biết pháp 4 Niệm Xứ là pháp Ngài nhắc nhở trước khi Ngài tịch.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét