623- QUAN SÁT TRÊN TỨ NIỆM XỨ MÀ TÂM ĐỊNH TRÊN HƠI THỞ
(11:08) Bây
giờ đến cái giai đoạn thứ 3. Đó là cái giai đoạn thứ 2 rồi. Bây giờ
đến cái giai đoạn thứ 3 là các con ngồi tu. Ngồi tu mà luôn luôn tâm định trên
hơi thở, là giai đoạn thứ 3. Tức là cái giai đoạn
mà tu Tứ Niệm Xứ như Thầy đã nói. Ngồi mà quán sát thân, thọ, tâm,
pháp của mình, thì lúc bấy giờ đó, thì luôn luôn lúc nào cái thân, thọ, tâm,
pháp nó an ôn, thì cái thân nó sẽ định trên hơi thở, nó biết hơi thở. Đó
là giai đoạn thứ 3, nó luôn luôn nó biết hơi thở, mà không tập
trung, tự nó, nó biết hơi thở, mà không tập trung, tự nó, nó biết hơi thở. Do
đó thì lúc bấy giờ chúng ta cứ quan sát thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta, rồi
thấy nó an ổn, thì ngay đó cái tâm nó biết hơi thở. Còn nếu mà nó phóng
giật, nó hoàn toàn nó lôi ra ngoài, nó nghĩ cái chuyện này, hay hoặc là nó chuyền
ở trên pháp khác, nó riêng ra ngoài, nó phóng ra, thì kêu gọi cái tâm trở lại.
Tâm định trên hơi thở, không được phóng giật, không được ra ngoài. Đó là cái
giai đoạn thứ 3.
Cho nên giai
đoạn thứ 3 thì các con ngồi đi, đứng, đều là tu ở trên Tứ Niệm Xứ toàn bộ.
Còn về phần
đi kinh hành, ở cái giai đoạn thứ hai, về phần đi kinh hành, thì các con đi suốt
30 phút, đi trong khi đó đi rất là tự nhiên, không có đi quá chậm, mà cũng
không có đi quá nhanh, đi vừa với khả năng, đi như người vô sự.
(12:39) Thì
trong lúc đó các con bình thường thì thân, tâm các con hoàn toàn, cái tâm các
con chú ý vào bước chân đi và đồng thời các con không có cố gắng mà ức chế nó,
hoàn toàn tập trung trong bước chân đi, mà đi biết một cách rất nhẹ
nhàng. Vì vậy mà niệm vọng tưởng dễ khởi. Cái niệm nó sẽ sinh ra.
Và mỗi khi cái niệm sinh ra, thì chúng ta đem cái niệm đó mà mổ xẻ nó, tư duy,
quán sát nó, để rồi chúng ta triển khai cái tri kiến của chúng ta.
Trong khi
các Con con nhớ, khi mà đi kinh hành mà triển khai được cái tri kiến giải
thoát. Đó là một cái điều kiện để mà chúng ta thực hiện và đồng thời khi mà
chúng ta tu Định Niệm Hơi Thở, đi kinh hành. Tức là Chánh Niệm Tỉnh Giác định,
thì lúc bấy giờ chúng ta có cái thời gian chúng ta ngồi nghỉ.
Ngồi nghỉ
thì chúng ta cũng không phải cố gắng để cho đừng có vọng tưởng, mà
chúng ta ngồi nghỉ để cho nó có vọng tưởng, nó có những cái niệm nó khởi. Mà
khi mà có niệm khởi, thì chúng ta quán xét cái niệm đó, để triển khai thêm cái
tri kiến giải thoát của mình. Điều đó là điều tốt, chứ không có
sao hết. Cho nên, tu tất cả mọi cái sự tu tập của mình, nó đều giúp cho mình có
được những cái tri kiến giải thoát. Nó làm cho mình được giải thoát hoàn toàn.
Như vậy thì
trên cái bước đường tu, bây giờ các con nhớ kỹ. Đầu tiên hiện giờ các
con đang tập một cái pháp đó là 5 hơi thở, đi kinh hành một vòng, và đồng thời
trên bước đi, đi rất bình thường, tự nhiên, đếm đúng 20 bước, thì chúng ta lại
ngồi lại. Đó là cái pháp đầu tiên.
Cái pháp
thứ hai là tu ở
trên cái hơi thở, nhưng luôn luôn không có đi kinh hành, mà ngồi suốt 30 phút
hoặc là 10 phút, tùy theo khả năng, hoặc là đi kinh hành, cũng đều ở trên hơi
thở. Nhưng cứ khoảng năm hay mười hơi thở phải tác ý một lần, theo mình trạch
pháp. Tức là mình chọn lấy một cái câu pháp hướng nào cho phù hợp với mình như
“Tâm như đất, không có tham, sân, si”. Hoặc là “Tâm ly dục ly ác pháp”, hoặc là
quán ly tham, quán ly sân. Tùy theo cái mình tác ý ra cho phù hợp với cái đặc
tướng của mình, thì để cho mình thực hiện cho được kết quả tốt đẹp của nó.
(15:08) Như
vậy sự tu tập của mình nó mới có kết quả, chứ nếu mình tu tập nó không đúng,
thì nó sẽ không kết quả.
Vậy thì hôm
nay mình tu tập cái gì? Trong 1 tuần lễ hay một tháng này mình tu tập cái định
niệm hơi thở, 5 hơi thở đi kinh hành một vòng, thì tháng sau mình không có tu tập
cái pháp này nữa, mà mình tu tập cái pháp Định Niệm Hơi Thở, suốt 30 phút, dù
là đi, dù là ngồi. Ngồi trên ghế, ngồi xếp bằng, ngồi cách thức nào cũng được hết.
Nhưng mà vẫn luôn luôn ở trong hơi thở và tác ý ra. Đó nhớ như vậy.
Cái phần
thứ ba của cái pháp hơi thở này là cái pháp Tứ Niệm Xứ quan sát trên Tứ Niệm Xứ
mà tâm định trên hơi thở, nhớ như vậy thì chúng ta sử dụng được ba cái pháp niệm và luôn luôn lúc
nào trong giờ nào, phút nào mà nếu có niệm thì chúng ta dùng Định Vô Lậu để
quán xét, để tư duy quán xét để mà xả, để mà ly, để mà diệt các cái pháp ác
đang ở trong tâm của chúng ta, đang làm cho tâm chúng ta không có yên ổn, nó
đang bất động.
Do cái sự tu
tập như vậy thì chắc chắn là sẽ có kết quả nhiều và không bị lạc vào thiền tưởng
và nó không bị ức chế tâm chút nào cả. Nhớ kỹ mà tu tập, thì Thầy thấy kết quả
rất tốt.
Bây giờ con
còn hỏi thêm Thầy gì nữa không? Về tập trở lại kỹ những cái điều Thầy đã dạy.
Phật tử: … đấy là trong lúc ngồi, con
đi kinh hành như vậy thì có quan sát được không?
Trưởng
lão: Cũng quan
sát được. Và vì vậy khi mà tu tập như vậy thì chúng ta thấy cái kết quả rất tốt,
là vì chúng ta đã từng quan sát ở trên đó. Cho nên không có một cái pháp, một
cái niệm làm ô nhiễm 4 cái chỗ này được. Vì vậy mà bốn cái chỗ này nó rất là
thanh tịnh gọi là Tứ Niệm Xứ, chứ không phải ngồi ở trên tứ niệm xứ mà quán cái
này, quán cái kia hay quán cái nọ gọi là tu Tứ Niệm Xứ.
Tu Tứ Niệm Xứ
chỉ quét những cái chướng ngại ở trên bốn cái chỗ này mà thôi. Cho nên có thì
chúng ta mới tư duy quán xét mà đuổi đi, nhưng nó có cái phần thô và phần tế.
Cái phần thô
thì nó thuộc về Tứ Chánh Cần, ngăn ác, diệt ác ở trên Tứ Niệm Xứ.
Còn cái phần
vi tế chúng ta chỉ cần tác ý thôi, chứ chúng ta không quan sát nữa, để cho cái
thân tâm chúng ta nhanh chóng và thanh tịnh, nó không có bị động nhiều.
(17:30) Còn
khi mà tu tập theo Tứ Chánh Cần trên Tứ Niệm Xứ thì chúng ta mới quan sát rất
nhiều. Và quan sát rất nhiều như vậy thì tư duy quan sát nó để mà thấu suốt được
cái niệm, được cái chướng ngại ở trên thân thọ tâm pháp của nó, thì nó làm
chúng ta rất động. Nhưng vì cái pháp Tứ Chánh Cần nó giúp chúng ta động để mà
chúng ta triển khai được cái tri kiến giải thoát.
Còn đến Tứ
Niệm Xứ thì nó không cần triển khai cái tri kiến giải thoát nữa, mà nó chỉ cần
quét cho thân, thọ, tâm, pháp của nó rất thanh tịnh, không có bị động nữa, và
luôn luôn đi vào cái trạng thái tịnh mà xả tâm chứ không phải tịnh mà ức chế
tâm.
Thì lưu ý
cái phần tu tập Tứ Niệm Xứ cho nó rõ ràng.
Phật tử: Thì trong cái giai đoạn con tu ấy
Tứ Chánh Cần
trên Tứ Niệm Xứ chứ không phải Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ.
Cái giai đoạn
tu Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ là khi nào cái tâm chúng ta đã quét sạch hết những
cái thô, nó không còn phải quán, không còn phải tu duy nữa. Lúc bấy giờ chúng
ta tu Tứ Niệm Xứ nó mới có viên mãn được.
Còn nếu hiện
giờ mà tu Tứ Niệm Xứ thì nó còn bị cái niệm thô, buộc lòng chúng ta phải quán
tư duy, suy nghĩ thì nó làm động ở trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp của chúng
ta. Như vậy nó cũng chưa được tịnh, mặc dù chúng ta quán xét để đẩy lui các chướng
ngại pháp trên đó, nhưng vẫn còn thô. Cho nên nó không thanh tịnh.
Còn trái lại,
tu Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ thì chúng ta chỉ cần thấy một cái niệm đó, thì
ngay đó chúng ta có được cái tri kiến giải thoát. Và mỗi niệm khởi ra chúng ta
đều thấy được liền tức khắc, thấy nó dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu hoặc là triền
cái, hoặc là thất kiết sử.
Thí dụ thấy
một cái niệm đó mà nó thuộc về cái tình cảm, thương nhớ của mình với cha mẹ nhớ
lại ông và của mình ngày xưa đã để lại cái công ơn gì đó, bỗng nhiên nó nhớ lại
cái niệm như vậy thì chúng ta nói: “Đây là thất kiết sử đi đi”. Do đó chúng ta
chỉ tác ý câu “Thất kiết sử đi đi”. Bởi vì chúng ta đã thấy nó, biết nó là thất
kiết sử ngay liền. Do đó chúng ta tác ý đuổi liền. Vì vậy mà thân thọ tâm pháp
chúng ta mau tránh thanh tịnh và trở lại tâm, trở lại trạng thái thanh thản, an
lạc, vô sự của thân thọ tâm pháp.
(19:50) Đó!
Biết cách tu như vậy gọi là tu Tứ Niệm Xứ. Còn mình ngay bây giờ mình chưa có
diệt những cái, mình nhìn chưa ra được cái niệm thì mình biết tác ý nó sao cho
nhanh được?
Do đó mình
phải quán xét, tư duy coi cái niệm đó nó thuộc về dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu
hay kiết sử gì? Vậy mình còn đang truy tìm, kiếm cái niệm đó để biết được cái
niệm đó, nó thuộc về cái loại nào, thì do cái sự tư duy, suy nghĩ như vậy, thì
mình còn tu Tứ Niệm Xứ ở trên Tứ Chánh Cần hay là tu Tứ Chánh Cần trên Tứ Niệm
Xứ.
Đó thì con
hiểu như vậy thì mới biết rằng cái vai trò và cái giai đoạn mà tu tập của con ở
trong cái pháp nào. Nắm được mình biết mình tu cái pháp đó thì nó mới có hiệu
quả, chớ không phải trong giai đoạn này mà các con tu Tứ Niệm Xứ được.
Bây giờ các
con còn hỏi thêm gì Thầy nữa không?
Bây giờ con
ngồi tu Tứ Chánh Cần, mà cái thân của con nó không có an lạc, nó bị đau nhức chỗ
này, chỗ kia. Đó là con đã thấy đây là cái nhân quả của đời trước mình đã tạo
những pháp ác. Cho nên bây giờ mình mang cái thân của mình, thay vì người ta
sao không đau bệnh như thế này, thì do đó con thấy rằng mình là bị cái nhân quả.
Vậy cái tâm
bất động, đừng có sợ, mình phải vui vẻ, mình trả nhân quả, đừng có lo lắng. Vậy
thì cái thọ có lúc có, lúc không. Cái nhân quả thì khi cái quả đến thì mình phải
chịu, mà cái quả đi thì mình lại hết. Từ đây về sau mình không có tạo cái nhân
ác nữa, mình không có làm điều ác nữa. Do vì vậy cái quả này đến, mình vui vẻ,
mình không có sợ hãi trước cái đau nhức đó, để cho cái tâm mình nó an ổn. Cái
thọ nó vẫn còn, chưa thể hết và đồng thời mình dùng cái tâm lực của mình để tác
ý “Cái thọ là vô thường, hãy rời khỏi thân ta để cho ta được yên ổn tu
tập”. Đó là cái thứ nhất.
Cái thứ hai,
con phải tìm những thuốc thang mà uống, đây là cái phước hữu lậu. Do đó bây giờ
về cái bệnh mà đau nhức cái tay hay là đau nhức trong thân mình, thì mình tìm
các loại thuốc uống, để cho giảm. Vì cái năng lực, tâm lực của mình, mình chưa
có định. Cho nên tuy rằng mình hướng tâm mình nhắc, để cho cái tâm mình nó an ổn,
nó không có sợ cái thọ đau đớn đó, để cho nó vững vàng, để mình tiến tu mà mình
thấy mình không có chùn bước trên con đường tu tập của mình. Vì vậy mình hướng
tâm, mình nhắc nhở mình, để cho cái tâm mình an ổn. Đồng thời mình biết năng lực
cái tâm mình chưa đủ, thì mình lên tìm thuốc thang mình uống, cho nó giảm cơn
đau, để cho nó yên ổn, để cho mình tu tập cho nó dễ.
(22:30) Chừng
nào mà cái năng lực của mình đủ cái sức định mình có. Vì vậy mà cho nên khi mà
cái thọ nó đến như vậy đó, thì mình sẽ đuổi đi rất dễ và mình cứ nhắc một câu
pháp hướng, là nó đã lui liền tức khắc. Mình nhắc: “Cái thọ là vô thường,
hãy rời khỏi thân ta đi, ta nguyện rất định sống thiện pháp, để chuyển toàn bộ
ác pháp. Và đồng thời những cái nhân quả từ nhiều kiếp ta sẽ chuyển hết. Vậy
thì cái thọ phải rời khỏi thân ta, không được ở đây nữa”.
Do như vậy
mà lúc bấy giờ chúng ta hướng tâm như vậy, thì tâm chúng ta nó không còn dao động.
Do đó chúng ta tập trung vào cái chỗ an tịnh, cái tâm thanh thản, an lạc của
chúng ta. Và vì vậy thì cái hơi thở của chúng ta lúc bây giờ tâm sẽ định trên
đó.
Do tâm mà
bám chặt định trên hơi thở, thì lúc bấy giờ cái cảm thọ của chúng ta không thấy
đau nữa. Còn nếu mà tâm chúng ta chưa có bám chặt trên hơi thở, thì tức là
chúng ta còn cảm thấy đau, chứ còn khi mà nó bám chặt, thì cái thân chúng ta
không thấy đau nhức nữa.
Do vậy, con
nên cố gắng tu tập để rồi có gặp trường hợp thân nó già yếu thì nó sẽ đau nhức
chỗ này nó đau nhức chỗ kia, nó làm rất là khổ sở.
Nhưng mà điều
kiện thứ nhất là hướng tâm để bảo vệ cái tâm nó đừng có sợ trước cái đau. Cái
thứ hai là dùng pháp hướng đẩy lui cái thọ. Cái thứ ba là tập trung cái tâm vào
một cái nơi khác của cái thọ, thì cái thọ nó sẽ không còn cảm giác đau nữa. Tức
là chúng ta sẽ chuyển cái đau khổ đó, chuyển cái quả đó nó sẽ không còn đau.
Cố gắng mà
tu tập, có thọ thì luôn luôn lúc nào cũng phải nỗ lực tu tập để mà đuổi cái thọ.
Thí dụ như
chẳng hạn là bây giờ con bị nhức đầu, thì lúc nào con ngồi tu, con cũng đều tác
ý về cái phần thọ của con là “Cái nhức đầu phải lui, không có được đau nhức cái
đầu nữa. Từ nay về sau phải hết”. Mặc dù nó không hết, nhưng tâm con vẫn an ổn
rằng cái năng lực của con sẽ đẩy lui được nó. Và đồng thời con yên tâm con tu,
thì con mới nhiếp tâm được. Tâm con không có phóng giật ngay chỗ thọ của con
thì con sẽ hết đau.
Con còn hỏi
Thầy gì thêm nữa không?
Phật tử: Dạ thưa Thầy tỉ dụ như là con
đang ngồi thì nó đau?
À trong khi
mà con ngồi bị đau, thì con xả, con đứng dậy con đi kinh hành, mà nó hết đau.
Còn nếu bây giờ con đang ngồi mà nó đau cái nhức đầu hay đau bụng, thì con cũng
xả ra con đi lấy thuốc uống hoặc là, chứ còn con không có đủ sức mà con ngồi
con chịu đau để mà vượt qua, không phải đâu, chịu đau để vượt qua là cái vô
minh, cái ngu si. Nó không có xả được đâu, mà nó làm cho chúng ta khổ sở thêm.
Vì vậy khi bị
đau, thí dụ khi đang ngồi Thiền mà nó bị đau bụng, thì chúng ta xả Thiền ra
chúng ta tìm thuốc đau bụng uống đi mặc dù là chúng ta có hướng tâm đẻ mà thực
hiện nó nhưng mà khi mà uống thuốc vô rồi ấy thì chúng ta cũng hướng tâm …
HẾT BĂNG

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét