613-MINH NHÂN & CHÍ THIỆN THAM VẤN TU TẬP TỨ NIỆM XỨ/ 4
THẦY DẠY CHÍ
THIỆN THỈNH VẤN
Trong
vấn đề quán thân “thanh thản, an lạc, vô sự” mà cảm nhận toàn thân con là đúng
rồi; còn thấy những hiện tượng của sắc tướng như một bóng lờ mờ hiện ra, một
ánh sáng, một đám mây, một luồng khói hay một cái gì khác. Tất cả những cái đó
là sắc tưởng. Còn trong tai con có nghe đàm thoại, đối thoại nhau cái gì, hoặc
là âm thanh tiếng chuông, tiếng ù này kia đều là thanh tưởng. Do đó phải xả. Tại
mình quán trên thân ôm chặt quá nên mình xả ra nhẹ nhàng hơn thì nó sẽ mất đi.
Hoặc ngồi mà thấy tưởng thì con đứng dậy, đi một cách tự nhiên nhưng cũng giữ
tâm quán trên thân của mình. Thay đổi oai nghi như vậy thì hiện tượng của tưởng
sẽ tan biến đi. Như vậy, mình cần tự xét lại coi tại sao lại thấy các loại tưởng:
Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tưởng thì sẽ thấy: Đây là do giới luật mình
chưa giữ nghiêm, còn vi phạm hay còn ai làm động mình phạm giới độc cư đây, thí
dụ như người ta viết thư hay người ta nói gì đó thì hiện tượng này xẩy ra; hoặc
do mình hoặc do người ta phạm giới, phá giới người ta làm động mình. Như vậy,
hiện tượng tưởng xẩy ra là do sự phạm giới. Biết như vậy thì cố gắng khắc phục,
đóng cửa, tránh các duyên, không tiếp mọi người để cho hoàn toàn trên thân quán
thân khắc phục tham ưu suốt thời gian 7 ngày thì nó sẽ đến nơi đến chốn.
Điểm
lưu ý: Các trạng thái quán thân nó nhẹ nhàng, mình không dụng công mà tự nó
quán. Thí dụ mình thức dậy còn nằm trên giường, chưa tới giờ tu mà cũng thấy nó
quán; lúc mình ngồi chơi cũng thấy nó quán; mình xếp bằng cũng thấy nó quán.
Như vậy tức là nó đang quán, nó đang quay vô, nó không phóng dật đó. Đó là con
đường tu đúng rồi. Đó là tự quán thân. Còn như bây giờ thỉnh thoảng con còn nhắc
“Tâm thanh thản, an lạc, vô sự” hoặc “An tịnh thân hành...”, nhưng sau này, khi
tự nó quán thì con không có tác ý nữa mà con mở mắt ra là thấy nó quán, ngồi
cũng thấy nó quán, đi cũng thấy nó quán; nó cảm nhận trên thân con; nó luôn
luôn ôm chặt cái thân con; nó không phóng dật. Nó quay vô, nó định trên thân
con đó. Đó là cái tâm con sắp sửa chứng ở trên Tứ Niệm Xứ của con rồi. Nó sẽ
sung mãn trong thời gian không lâu đâu. Trên pháp Tứ Niệm Xứ mà quán thân được
rồi thì rất nhanh chứ chưa quán được hay quán lúc được lúc không thì mới còn
lâu dài. Khi quán được thì thấy tự nhiên nó quán, nhẹ nhàng nó quán thì chỉ
trong một tuần là cao nhất phải chứng đạo, phải thành tựu. Tâm không còn phóng
dật trong một tuần là chứng đạo.
Cái mục
đích của không phóng dật, cái chỗ của không phóng dật là ở chỗ phải quán thân
cho được nên bài pháp này Thầy nói về tâm không phóng dật. Các con cần biết cái
tâm ở chỗ nào mà nó không phóng dật quán, đó chính là ở chỗ “quán thân cho được”.
Điểm
lưu ý: Thầy tin rằng một ngày nào đó nếu ở đây các con tu chưa xong thì có thể
Thầy sẽ dẫn một số các con đi theo Thầy tại vì những người đó ở hoàn cảnh nầy bị
mấy con làm động họ chứ họ nhiệt tâm, rất nhiệt tâm, họ quyết tu lắm nhưng vì bị
động cho nên họ phạm giới mà họ không đạt được trong 4 tháng. Nếu bình an, ai
cũng nỗ lực, đừng ai làm động họ thì họ sẽ chứng đạo trong mấy tháng nầy, không
có lâu. Vì bị người khác làm động, chẳng hạn như ở gần bên thất các con mở băng
nghe hát thì người trong thất đó nỗ lực tu nhưng vẫn bị động. Nếu các con tu
chưa xong, Thầy sẽ dẫn các con đi đến một khu rừng già nào đó ở để mà tu Tứ Niệm
Xứ vì Tứ Niệm Xứ cần sự yên tĩnh.
Điểm
lưu ý: Phải có bằng cớ chứng đạo mới chấn chỉnh Phật giáo được, không chứng đạo
thì không chấn chỉnh được; chúng ta có nói gì hay đi nữa nhưng chúng ta không
chứng đạo, không có bằng chứng thì chúng ta không dựng lại Chánh pháp Phật được.
Có nhiều
người quán thân rất tốt, nhưng vì hoàn cảnh không yên tịnh trọn vẹn thanh tịnh
thân tâm được, bị các pháp chung quanh làm cho bị động thì không ở trên Tứ Niệm
Xứ tu được, khi đó các con lui về Tứ Chánh Cần ôm pháp tu thì tốt nhất. Hoàn cảnh
thuận tiện thì mình mới dám ở trên Tứ Niệm Xứ mà tu, còn bây giờ bị động, bị âm
thanh này kia thì lui về Tứ Chánh Cần nương vào hơi thở an tịnh thở ra, an tịnh
hít vô để đánh át âm thanh đó đi, nhờ đó mình mới chiến thắng được. Ở Tứ Niệm Xứ
quán không nhiếp phục nó được đâu. Tứ Niệm Xứ đòi hỏi cảnh phải thật là yên tịnh
mới thuận tiện để tu mới được. Cho nên giai đoạn này là giai đoạn Tứ Chánh Cần
chuyển lên Tứ Niệm Xứ.
Khi đi
khất thực thì tĩnh giác ở trên hành động của nó là được rồi, không khéo nó quên
hành động của nó. Thí dụ ra đến chỗ lấy cơm thì mình nghĩ xúc cơm bao nhiêu, có
sự tính toán trong đầu, rồi đến lấy đồ ăn, đặt các túi thức ăn vào bát. Khi về,
lại lấy các túi thức ăn ra, sớt vô bát. Chú ý từng hành động. Khi đưa cơm vào
miệng, nhai, nuốt đều phải tỉnh táo từng hành động. Tất cả những hành động đó
cũng là quán thân chớ không phải mình nhai rồi cảm giác toàn thân. Không phải vậy.
“Tôi nhai tôi biết tôi nhai” rồi “Tôi nuốt tôi biết tôi nuốt” rồi “Tôi bỏ miếng
khác vào miệng”. Tất cả những hành động làm phải tỉnh táo. Suốt trong thời gian
ăn đó là “quán thân trên thân” đó (quán Thân Hành Niệm ngoại, còn hít thở cảm
giác toàn thân là Thân Hành Niệm nội). Cho nên đối với Tứ Niệm Xứ lúc nào cũng
quán, không có giờ nghỉ, ăn cũng quán thân, đi cũng quán thân; sớt bát, lấy đồ
ăn,... tất cả mọi cái đều quán thân. Chính vì vậy mà quán Tứ Niệm Xứ lúc nào
cũng tỉnh thức; tỉnh thức liên tục như vậy mới 7 ngày chứng đạo. Nếu nó nghỉ tức
là nó huân lại pháp thế gian; còn nó không nghỉ, nó luôn luôn ở trên pháp xuất
thế gian.
Pháp Tứ
Chánh Cần trở về thế gian, còn pháp Tứ Niệm Xứ luôn ở trên pháp xuất thế gian.
- Ở
trên Tứ Niệm Xứ dù có cảm thọ gì thì con chỉ quán ở trên thân thôi thì cảm thọ
sẽ dừng lại, bị nhiếp phục. Nếu con tác ý ra thì đã trở về Tứ Chánh Cần rồi, Tứ
Chánh Cần trên Tứ Niệm Xứ, bởi vì mình tu pháp gì nó cũng trở về Tứ Niệm Xứ hết.
Tu về nhân quả, tu về đạo đức không làm khổ mình, khổ người đều ở Tứ Niệm Xứ. Tứ
Niệm Xứ là gốc của con người mà thân, thọ, tâm, pháp là 4 chổ sống tu tập của
chúng ta.
- Độc
cư là giữ tâm không phóng dật. Đi làm công chuyện là phá hạnh độc cư; làm chuyện
này, chuyện nọ là tâm phóng dật, là phá hạnh độc cư. Cho nên giữ hạnh độc cư là
ngồi chơi vô sự, giữ tâm không phóng dật.
- Tu tất
cả pháp chứ chẳng riêng Tứ Chánh Cần hay Tứ Niệm Xứ đều phải giữ gìn giới luật
nghiêm chỉnh thì tu mới có hiệu quả, bằng không thì không có hiệu quả.
- Độc
cư, khi có người hỏi mình mà mình không trả lời là giữ hạnh đôc cư mà cũng là bịt
miệng họ liền tại chỗ ngay buổi ban đầu không cho có lần sau, ngày mai. Nếu trả
lời thì mình sẽ bị hỏi hoài. Độc cư chứ không phải độc câm, trả lời chứ không
phải không trả lời mà trả lời thì tâm bị phóng dật nên phải phòng hộ tối đa. Biết
trả lời nhưng không trả lời để bảo vệ mắt tai mũi miệng thân ý; bảo vệ không
cho ý của người khác lọt vô ý của mình, xả không hết, nên buộc lòng không trả lời
để giữ hạnh độc cư để đi đến cuối cùng rốt ráo. Trong đời tu hành của tôi chỉ
còn thời gian ngắn nữa mà thôi, không kéo dài lê thê mãi. Tôi không câm nhưng
tôi không nói.
- Khi
giữ hạnh độc cư mà cứ đi làm hết chuyện này đến chuyện kia, như nhỗ cỏ, quét
sân,... là tâm chưa tịnh, là còn phóng dật, chẳng phải độc cư mà phá hạnh đôc
cư. Độc cư thì ngồi chơi không làm gì hết (vô sự), chỉ có môt mình, không chơi
với ai hết thì mới độc cư. Độc cư là pháp phòng hộ cho không phóng dật; còn làm
công chuyện, tiếp duyên nói chuyện là còn phóng dật. Cho nên ở đây phải vô sự
hoàn toàn.
Điểm cần
lưu ý: Nói về tu tập trên thân quán thân thì các con phải hỏi kĩ thế nào là
quán thân đúng chứ nó có nhiều cách quán lắm.
Khi mới
đầu chúng ta tập “Cảm giác toàn thân tôi biết tôi hít vô; cảm giác toàn thân
tôi biết tôi thở ra” thì lúc đó chúng ta cảm giác qua hơi thở, nhưng tiến lên mọt
bước nữa thì chúng ta không có ở đó đâu, nó tự nhiên hơn; rồi tiến sâu hơn nữa
thì nó lại khác. Nó cứ tiến từng bước, từng bước. Khi các con chứng được tâm
không phóng dât thì nó lại còn khác nữa. Các con đừng nghĩ rằng trong sự quán
thân, người mới tu và người tu lâu đều quán giống nhau. Không giống nhau đâu.
Khác nhau. Người chứng đạo xong cũng quán thân nhưng lại quán khác hơn nữa. Cho
nên đừng nghĩ chung chung một cách quán. Các con tu chưa tới, chưa hiểu được
đâu. Các con cứ tu tập theo cách các con có hiện giờ. Khi các con quán được như
thế nào thì hỏi Thầy chỗ đó đúng chưa, coi hiện tượng gì xẩy ra. Cái gì đúng Thầy
bảo giữ; cái gì không đúng, Thầy bảo xả thì phải xả. Các con cần hiểu biết rằng
các con đều quán thân trên thân nhưng đến chỗ cuối cùng chứng đạo thì nó khác.
Các con có Tứ Thần Túc thì cũng vẫn quán thân nhưng không phải như cái quán
thân lúc mới bắt đầu; nó không phải như lúc mới bắt đầu tập quán. Các con đừng
hiểu vậy, đừng ngậm miệng thoả mãn “Ờ, như vậy là được rồi”, mà dậm chân tại chỗ
cái quán đó. Tâm càng lúc càng thanh tịnh thì cái quán càng đi tới, đi tới
hoài, nó thay đổi tiến lên hoài. Nhưng cần biết thay đổi đó đúng hay sai. Thay
đổi đúng là khi nào giới luật giữ gìn nghiêm chỉnh, còn giới luật lỏng lẻo là
thay đổi sai. Giới là hàng đầu, nó vạch ra con đường cho chúng ta đi, cho nên
nó thanh tịnh. Giới thanh tịnh là nó vạch con đường Tứ Niệm Xứ đi thẳng vào
không phóng dật, là đi tốt. Nếu giới bị phạm thì nó bẻ quanh con đường khác,
không ai cản được nó. Cho nên giới quan trọng lắm: Giới sanh Định, Định sanh Tuệ
mà!
Thôi,
đến đây các con trở về thất tu tập, nỗ lực tu tập, sau 4 tháng nữa Thầy sẽ gặp
lại các con, mong sao lúc gặp lại, các con đều là những người chứng đạo.
(Minh
Nhân rút ngắn từ buổi pháp thoại ngày 16-7-âl của đức Trưởng Lão)
NHỮNG ĐIỂM CẦN
LƯU Ý KHI TU TẬP TỨ NIỆM XỨ
1- Phóng
dật có nghĩa là tâm hướng ra ngoài hay chạy theo các pháp trần.
2- Các
pháp dạy tâm như Định Niệm Hơi Thở – Định Sáng Suốt – Định Vô Lậu – Định Chánh
Niệm Tỉnh Giác – Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ – Thân Hành Niệm nhằm để khắc phục
tham ưu.
3- Chúng
ta là những người tu theo đạo Phật, được xem là những người trí tuệ; người trí
tuệ xem sự phóng dật của tâm là một điều tối kị trong đạo Phật. Muốn làm chủ
sanh, già, bệnh, chết mà tâm còn phóng dật thì chẳng bao giờ làm chủ được, cho
nên giữ gìn tâm không phóng dật là một điều rất hoan hỷ cho cuộc đời tu hành của
mình. Khi tâm thuần thục không còn phóng dật thì một trạng thái an lạc vô cùng
hiện đến, đầu óc rỗng rang khiến cho hành giả tưởng mình lạc vào thế giới thần
tiên.
4- Kinh
Pháp Bảo Đàn đã hiểu sai tâm không phóng dật là tâm không niệm thiện, niệm ác.
Tâm không niệm thiện, niệm ác là một lối thiền ức chế tâm, đó là đường cùng của
thiền định ngoại đạo, tiến thoái lưỡng nan. Tu đến chỗ VÔ NIỆM thì người ta
không còn chỗ tu nữa, nhưng nhìn lại đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo.
5- Trong
Bát Chánh Đạo, đức Phật đã chỉ rõ loại thiền định nào để chúng ta tu tập không
sai: Đó là 4 Thiền Hữu Sắc là Chánh Định là Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ
Thiền. Sơ Thiền là thiền định chỉ có đạt được khi tâm ly dục ly ác pháp, chính
là tâm không phóng dật.
6- Khi
tâm không phóng dật mà không dính mắc vào 5 chi Sơ thiền (tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất
tâm) thì đó là nhập vào “Bất Động Tâm Định”, trạng thái bất động tâm định là trạng
thái Niết Bàn. Đức Phật dạy: Người hằng tu thiền định tức là hằng tu tập Sơ thiền.
Tu tập Sơ thiền chỉ có nhiếp phục tâm để tâm ly dục ly ác pháp; có ly dục ly ác
pháp thì tâm mới không phóng dật; mà tâm không phóng dật là Niết Bàn tại thế
gian, trong cuộc sống này.
7- Quán
thân tức là quan sát, xem xét trên toàn thân, từ hành động, việc làm và ý niệm:
Ăn uống, nhai nuốt, khất thực, sớt bát... cảm nhận bước đi trên đường đi,... Tất
cả các hành động đều tỉnh thức chú tâm theo dõi, đó là cách quán thân hành ngoại,
ngồi hít thở cảm giác toàn thân, theo dõi từng tâm niệm thiện ác. Biết niệm khởi
nhưng tâm chẳng chú ý vào niệm thì niệm đó bị bẻ gãy ngay tại chỗ khởi. Đó là
khắc phục tham ưu. Tâm có tham biết tâm có tham, tâm có sân biết tâm có sân thì
bẻ ngay liền tại chỗ bằng tác ý bảo đừng tham, đừng sân. Và nhiều niệm khởi thuộc
về ý niệm khác thì tùy ý niệm, đó là quan sát Thân Hành Niệm nội. Nói chung tất
cả ý niệm là thuộc thân hành nội; tất cả hành động việc làm của thân là thuộc
thân hành ngoại.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét