603-TỨ NIỆM XỨ/ 2
Như đã nói ở
phần Tứ Chánh Cần, TÀ NIỆM là các niệm dục và ác pháp trên thân tâm. Nhưng sang
giai đoạn tu tập Tứ Niệm Xứ, thân tâm chỉ còn các tà niệm vi tế, chứ không còn
các tà niệm thô như lúc mới tu tập ngăn ác, diệt ác pháp.
Vậy còn TRÊN
THÂN QUÁN THÂN là như thế nào?
Trên thân
quán thân có nghĩa là dùng mắt nhìn thấy, tai lắng nghe, thân cảm nhận xúc chạm
và ý thức quan sát ngay trên thân. Nếu thân có đau nhức chỗ nào liền biết ngay,
thân đi biết thân đi, thân ngồi biết thân ngồi, thân nằm biết thân nằm, thân đứng
biết thân đứng, v.v…
Tuy nói trên
thân quán thân nhưng thật sự là đang quán bốn chỗ: thân, thọ, tâm và
pháp. Vì biết thân là biết thọ, biết thọ là biết tâm, biết tâm là biết
pháp, biết pháp là biết thân. Cho nên trên TỨ NIỆM XỨ, biết chỗ này
thì liền biết chỗ khác. Bốn chỗ này như một khối. Tuy nói bốn nhưng mà một.
Quán thân
trên thân, tức là tâm tỉnh thức trên thân, nên thân xảy ra một điều gì dù lớn lao hay nhỏ nhặt
tâm đều biết rất rõ. Cho nên nói trên thân quán thân chớ kỳ thực là quán TÂM BẤT
ĐỘNG, nếu Tâm Bất Động suốt bảy ngày đêm là tu tập chứng đạo. Còn ngược lại,
trong bảy ngày đêm tâm thường bị hôn trầm, thùy miên, vô ký và loạn tưởng thì
nên dùng pháp NGĂN ÁC, DIỆT ÁC, để mà diệt các ác pháp này.
Bởi vậy,
pháp môn TỨ NIỆM XỨ là một pháp môn tu tập để chứng đạo. Pháp môn này rất quan
trọng, nếu ai không tu tập nó thì không bao giờ chứng đạo. Cho nên chúng ta cần
phải thông suốt đường lối tu tập như thế nào đúng và như thế nào sai.
Một lần nữa
chúng tôi xin nhắc các bạn: Phải tu tập pháp môn TỨ CHÁNH CẦN rồi sau mới tu tập
đến pháp môn TỨ NIỆM XỨ. Nếu không biết thì đừng nên tu tập, bởi có tu tập cũng
chỉ uổng công mà thôi.
Các bạn đừng
nghe nói pháp môn TỨ NIỆM XỨ mà ham tu cao. Pháp môn này dành cho những
bậc GIỚI LUẬT nghiêm túc, dành cho những bậc tâm đã BẤT ĐỘNG trước các ác pháp
và các cảm thọ, chớ không phải pháp môn này bất cứ ai muốn tu tập là đều tu
tập được. Nếu các bạn tu tập mà không biết khả năng trình độ của mình thì đó là
tu tập sai pháp, xin quý vị cần lưu tâm.
Bất cứ thân
làm điều gì đều biết: Thân ăn biết thân ăn, thân ngủ biết thân ngủ, thân quét
sân biết thân quét sân, thân lặt rau biết thân lặt rau, thân ngồi yên biết thân
ngồi yên và khi thân ngồi yên bất động thì biết hơi thở ra, hơi thở vô trên
thân. Tất cả hành động đều được xem là trên thân quán thân. Dù quán hơi thở ra,
hơi thở vô cũng chính là trên thân quán thân.
Trên thân
quán thân được như vậy là phải có sức tỉnh thức. Đây, chúng ta hãy nghe đức Phật
dạy cách thức tu tập tỉnh thức: “Và này các Tỳ kheo, thế nào là Tỳ
kheo tĩnh giác? Ở đây, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo tĩnh giác khi đi tới, đi lui;
tĩnh giác khi ngó tới, ngó lui; tĩnh giác khi co tay, duỗi tay; tĩnh giác khi
mang áo sanghati (tăng già lê), mang bát, mang y; tĩnh giác khi ăn, uống, khi
nhai, nếm; tĩnh giác khi đại tiện, tiểu tiện; tĩnh giác khi đi, đứng, khi ngồi,
nằm; khi thức, khi nói, khi im lặng đều tĩnh giác. Này các Tỳ kheo, như vậy Tỳ
kheo sống tĩnh giác”. Đoạn kinh trên đây đã xác định sự
tĩnh giác trên thân hành của chúng ta. Vậy THÂN HÀNH của chúng ta là gì?
Thân hành của
mỗi người được chia ra làm hai phần:
1- Thân
hành nội. (hơi thở)
2- Thân
hành ngoại. (tất cả mọi sự hoạt động của thân)
Thân hành hoạt
động gồm có ba nơi:
1- Thân
2- Miệng
3- Ý
Như vậy, muốn
tĩnh giác trên thân hành thì các bạn hãy phản tỉnh lại thân, miệng, ý của mình.
Khi phản tỉnh lại thân, miệng, ý của mình là các bạn hãy chủ động điều khiển
thân hành, khẩu hành và ý hành, khiến cho thân hành, khẩu hành, ý hành của các
bạn không có lỗi lầm. Thân hành, Khẩu hành, Ý hành của các bạn không có
lỗi lầm tức là Chánh Niệm, còn có lỗi lầm là có Tà Niệm.
Bài kinh này
đức Phật dạy chúng ta phải phản tỉnh lại thân hành, khẩu hành và ý hành, nói
chung là dạy chú ý tất cả các hành động của thân, đó là tĩnh giác. Nhưng nếu
nghe như vậy, rồi các bạn tu tập chỉ lo chú ý tập trung trên thân hành
một cách ức chế tâm cho hết niệm khởi, thì đó là một điều tu sai lệch pháp hết
sức. Đó là các bạn đã hiểu sai, biến pháp xả tâm của Phật thành pháp ức chế.
Đức Phật rất
sợ chúng ta tu tập Tứ Niệm Xứ lầm lạc thì tai hại không lường được về hậu quả. Bởi
vì pháp môn Tứ Niệm Xứ là một pháp môn độc nhất để đưa con người có đủ năng lực
làm chủ nhân quả, tức là làm chủ mọi sự hoạt động của chúng ta hằng ngày. Tức
là như lời đức Phật dạy ở đoạn kinh trên: “Tỳ kheo phải sống an trú
chánh niệm tĩnh giác”.
Cho nên,
chúng ta hãy hiểu cho rõ ràng, để biết cách sống AN TRÚ CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC mà
không sai lầm trên pháp môn Tứ niệm Xứ. Đây, xin các bạn hãy lắng nghe đức Phật
dạy tiếp: “Vậy này các Tỳ kheo, các Thầy phải gội sạch hai pháp cơ bản
về các thiện pháp, và thế nào là hai pháp cơ bản về các thiện pháp? Chính là Giới
khéo thanh tịnh và Tri kiến chánh trực. Này các Tỳ kheo, khi nào các Thầy
được Giới khéo thanh tịnh và Tri kiến chánh trực, các Thầy hãy y cứ trên giới,
an trú trên giới tu tập Bốn Niệm Xứ: thân, thọ, tâm, pháp”. (kinh
Tương Ưng tập 5 và Tăng Chi Bộ kinh tập 1).
Đoạn kinh
trên dạy rất rõ ràng: “Giới luật và Tri kiến”. Bởi vậy, muốn khắc
phục những tham ưu trên thân, thọ, tâm và pháp thì phải y cứ trên GIỚI LUẬT, sống
không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, thì mới mong đẩy lui các chướng ngại
pháp trên đó (khắc phục tham ưu).
Thưa các bạn!
Trong kinh Ước Nguyện, đức Phật cũng đã nhắc nhở chúng ta rất nhiều về giới luật.
Vì giới luật rất quan trọng trên con đường tu tập giải thoát. Muốn ước nguyện kết
quả một điều gì trong sự tu tập thì giới luật phải nghiêm chỉnh. Ở đây, tu tập
Tứ Niệm Xứ đức Phật cũng dạy chúng ta lấy GIỚI LUẬT và TRI KIẾN làm nền tảng
cho sự nhiếp phục những tham ưu trên TỨ NIỆM XỨ, nghĩa là muốn đẩy lui
những sự khổ đau trên thân, thọ, tâm và pháp thì giới luật phải nghiêm chỉnh.
Giới luật nghiêm chỉnh thì tri kiến thanh tịnh, tri kiến thanh tịnh thì giới luật
mới nghiêm chỉnh. Giới luật làm thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh giới
luật. Đó là nền tảng vững chắc để chúng ta tu tập Tứ Niệm Xứ mà làm chủ bốn sự
đau khổ: sanh, già, bệnh, chết của đời người.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét