602-TỨ NIỆM XỨ/ 1
Khi tu tập Tứ
Chánh Cần thuần thục, thì không còn ác pháp tới lui nữa, đức Phật cảm nhận thân
tâm mình tham, sân, si giảm bớt thấy rất rõ ràng. Đồng thời trạng thái tâm bất
động, thanh thản, an lạc và vô sự rõ ràng hơn, và mỗi ngày đức Phật càng tăng
thời gian kéo dài thêm trạng thái đó.
Lúc bấy giờ,
đức Phật thấy tâm mình rất lạ lùng, là luôn luôn cảm nhận toàn thân tâm của
mình trong hơi thở ra và hơi thở vào, từ canh này sang canh khác, không có một
niệm nào xen vào; không một ác pháp nào khởi ra được, nhất là các ác pháp bên
ngoài không tác động vào được thân tâm. Do trạng thái này, đức Phật không còn
phải ngăn, diệt dục và ác pháp như trong pháp môn tu tập TỨ CHÁNH CẦN.
Khi tu tập
pháp môn Tứ Chánh Cần thì niệm dục và niệm ác pháp khởi liên tục, còn bây giờ
thì khác xa, tâm không có bất kỳ một niệm ác hay dục khởi lên một cách rất tự
nhiên, chớ không phải còn gò bó ra công tu tập như ngày xưa nữa.
Với cách
quán xét thân, thọ, tâm, pháp như vậy, từ ngày này sang ngày khác, chỉ duy nhất
có một cảm nhận quán xét trên toàn thân. Khi trạng thái này xuất hiện thì sự tu
tập TÂM BẤT ĐỘNG của đức Phật rất dễ dàng và thoải mái.
Suốt thời
gian còn lại hơn 7 ngày, trong 49 ngày tu tập dưới cội bồ đề, đức Phật thấy rất
rõ tâm mình có một cảm nhận trên thân quán thân như vậy, không có một tâm niệm
nào khác nữa. Trong suốt 7 ngày đêm mà đức Phật tưởng chừng như trong một khoảng
thời gian rất ngắn, chỉ hơn một phút. Ở trạng thái tâm này kéo dài cho đến khi
tâm VÔ LẬU hoàn toàn. Nhờ tâm Vô Lậu hoàn toàn nên mới có đầy đủ TỨ THẦN TÚC.
Đó là lúc chứng đạo giải thoát.
Từ trạng
thái tu tập tâm này, đức Phật mới đặt cho nó một cái tên đúng nghĩa quán bốn chỗ
của nó: “TỨ NIỆM XỨ”.
Khởi đầu đức
Phật tu tập SƠ THIỀN của ngoại đạo, nhưng do sáng kiến biết sáng tạo ra những
pháp tu hành để ly dục, ly ác, làm chủ sinh, già, bệnh, chết, tức là làm chủ
thân tâm. Và cuối cùng đức Phật thành tựu tâm VÔ LẬU bằng pháp môn TỨ NIỆM XỨ,
chứ không phải nhập Sơ Thiền theo pháp môn của ngoại đạo.
Bởi vậy,
pháp môn Tứ Niệm Xứ chỉ có đạo Phật mới có, còn tất cả các tôn giáo khác đều
không có pháp môn này. Tại sao lại gọi là TỨ NIỆM XỨ?
Tứ Niệm Xứ
có nghĩa là bốn nơi dùng để quán xét, nó gồm có:
1- THÂN
là phần cơ thể đầu, mình, hai tay và hai chân.
2- THỌ là
các cảm thọ của thân và tâm.
3- TÂM là
phần sáu thức tiếp xúc sáu trần.
4- PHÁP
là thân, thọ, tâm và sáu trần đang xung quanh chúng.
Trong bốn
nơi này, chỉ cần quán xét một nơi là quán xét tất cả bốn nơi. Cho nên mới gọi là TỨ NIỆM XỨ.
Trên Tứ
Niệm Xứ có ba giai đoạn tu tập:
1- TỨ
CHÁNH CẦN tu tập trên Tứ Niệm Xứ. (Giai đoạn này người mới tu vẫn tu tập được và tu tập như vậy
mới có căn bản)
2- TỨ NIỆM
XỨ tu tập trên Tứ Niệm Xứ. (Giai đoạn rất khó tu, nếu mất căn bản thì không nhiếp phục được tham
ưu trên thân, thọ, tâm và pháp)
3- THÂN
HÀNH NIỆM tu tập trên Tứ Niệm Xứ. (Giai đoạn này là giai đoạn cuối cùng của Tứ Niệm Xứ, nó
chuyên tu tập lệnh để thực hiện Tứ Như Ý Túc)
TỨ CHÁNH CẦN
tu tập trên Tứ Niệm Xứ là phương pháp tu tập lớp Chánh Tinh Tấn, lớp thứ 6
trong Bát Chánh Đạo. Còn TỨ NIỆM XỨ tu tập trên Tứ Niệm Xứ là phương pháp tu tập
lớp thứ bảy, tức là lớp CHÁNH NIỆM trong Bát Chánh Đạo. Lớp thứ bảy là lớp tu
chứng đạo của Phật giáo. Ngoài pháp môn TỨ NIỆM XỨ thì không có pháp nào tu chứng
đạo giải thoát được.
Bởi trên Tứ
Niệm Xứ có ba giai đoạn tu tập, cho nên có những bài kinh đức Phật dạy tu tập Tứ
Niệm Xứ, nhưng kỳ thực là dạy tu tập TỨ CHÁNH CẦN trên Tứ Niệm Xứ. Đây, chúng
ta hãy lắng nghe Phật dạy: “Những Tỳ kheo nào, này các Tỳ kheo, mới
xuất gia tu chẳng bao lâu, mới đến trong những pháp luật này. Những Tỳ kheo ấy,
này các Tỳ kheo, cần phải được khích lệ (samàdapetabbà), cần phải được hướng dẫn,
cần phải được an trú, tu tập Bốn Niệm Xứ (thân, thọ, tâm, pháp). Hãy chuyên chú
với tâm thanh tịnh, định tỉnh nhất tâm để có chánh trí như thật đối với các
pháp”.
Cho nên, người
mới xuất gia vẫn tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ, nhưng phải tu tập ở giai đoạn đầu
là TỨ CHÁNH CẦN trên Tứ Niệm Xứ.
Bởi vậy, nếu
một người không có tu tập thì không thể nào hiểu được pháp môn Tứ Niệm Xứ, và
cũng không hiểu được Giới Luật.
Thưa các bạn!
Các bạn muốn biết rõ pháp môn TỨ NIỆM XỨ thì hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Một
thời, Thế Tôn ở Vesàli tại rừng Ambapàli. Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỳ kheo: Này
các Tỳ kheo, Tỳ kheo cần phải trú Chánh Niệm Tĩnh Giác. Đây là
lời giáo giới của Như Lai cho các Thầy.
Và này
các Tỳ kheo, thế nào là Tỳ kheo Chánh Niệm? Ở đây, này các Tỳ kheo, Tỳ
kheo trú quán thân trên thân, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham
ưu ở đời; trú quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh niệm,
nhiếp phục tham ưu ở đời; trú quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh niệm,
nhiếp phục tham ưu ở đời; trú quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tĩnh giác
chánh niệm nhiếp phục tham ưu ở đời. Như vậy, này các Tỳ kheo, là Tỳ kheo Chánh
Niệm”.
Đoạn kinh
trên đây dạy chúng ta cách thức chánh niệm, tức là học lớp Chánh Niệm. Vậy
CHÁNH NIỆM là gì?
Theo đoạn
kinh này, thì Chánh Niệm là niệm THANH THẢN, AN LẠC và VÔ SỰ. Niệm thanh thản,
an lạc và vô sự hiện tiền trên bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp thì tà niệm không
bao giờ xen vào được. Nếu tà niệm xen vào được thì tức khắc phải nhiếp phục,
không được để chúng tác động vào thân, thọ, tâm và pháp.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét