604-TỨ NIỆM XỨ/ 3
Bởi vậy,
pháp môn Tứ Niệm Xứ là ngọn đèn soi sáng, là chỗ nương tựa vững chắc cho chúng
ta. Đây, các bạn hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ những lời đức Phật nhắc nhở ông A
Nan: “Này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình
nương tựa chính mình, chớ nương tựa một điều gì khác; dùng chánh pháp làm ngọn
đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một điều gì khác. Này
Ananda, thế nào là Tỳ kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa
chính mình, không nương tựa một điều gì khác; dùng chánh pháp làm ngọn đèn,
dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một điều gì khác?
Ở đây,
này Ananda, Tỳ kheo trú quán thân trên thân, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh
niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; trú quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm,
tĩnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; trú quán tâm trên tâm, nhiệt
tâm, tĩnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; trú quán pháp trên các
pháp, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Như vậy, này
Ananda, Tỳ kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa
chính mình, không nương tựa một điều gì khác; dùng chánh pháp làm ngọn đèn,
dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một điều gì khác”.
Các bạn có
nghe chăng? Tứ Niệm Xứ là ngọn đèn chánh pháp, là chỗ nương tựa vững chắc cho
các bạn. Như vậy, Tứ Niệm Xứ đúng là một pháp môn rất quý báu nên đức Phật lặp
đi lặp lại nhiều lần, để chúng ta đừng quên pháp môn này.
Ở đoạn kinh
trên, đức Phật dạy chúng ta 2 điều:
1- Lấy
mình làm ngọn đèn, làm chỗ nương tựa vững chắc, là ý muốn dạy điều gì đây?
Xin thưa
cùng các bạn! “Tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa
chính mình, không nương tựa một điều gì khác”. Để thấu rõ và xác định ý
nghĩa của câu này, chúng tôi xin lặp lại: “Tự mình là ngọn đèn cho
chính mình, tự mình nương tựa chính mình”. Đó là Tri Kiến của chúng
ta đấy các bạn ạ!
2- Dùng
chánh pháp làm ngọn đèn soi sáng, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không
nương tựa một điều gì khác, là ý Phật muốn dạy pháp môn gì đây?
Xin thưa
cùng các bạn! Đó là Giới đức, Giới hạnh, Giới hành và pháp môn Tứ Niệm
Xứ. Đọc đến những đoạn kinh trên đây, chắc các bạn đã thấu hiểu và
phân biệt chánh pháp của Phật là pháp nào, còn tà pháp của ngoại đạo là pháp
nào? Nếu không có những lời xác định chánh pháp của Phật, thì đứng trước rừng
kinh sách hiện giờ, các bạn dễ rơi vào kiến giải tưởng của ngoại đạo.
Như chúng
tôi đã nói ở đoạn trước, nếu một người không có tu tập thì không thể nào hiểu
được pháp môn Tứ Niệm Xứ, và cũng không hiểu được Giới Luật. Bởi vì trong khi
trên TỨ NIỆM XỨ có ba giai đoạn tu tập, thì Giới đức, Giới hạnh và Giới hành
cũng là ba hành động đạo đức hằng ngày để tu tập GIỚI LUẬT.
Thực hiện giới
luật là phải luôn luôn thực hiện với tri kiến, cho nên kinh dạy: “Giới
luật ở đâu là tri kiến ở đó, tri kiến ở đâu là giới luật ở đó, giới luật làm
thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh giới luật”. Nếu người tu
sĩ và người cư sĩ không thực hiện giới luật nghiêm chỉnh, còn vi phạm những lỗi
nhỏ nhặt, không thấy xấu hổ và sợ hãi thì tu Tứ Niệm Xứ chẳng bao giờ có kết quả
rốt ráo, chỉ hoài công vô ích mà thôi, uổng phí một đời tu.
Ngoại đạo
không bao giờ có pháp môn Tứ Niệm Xứ, cho nên ngoại đạo không có ai tu chứng đạo
giải thoát. Nhờ có pháp môn Tứ Niệm Xứ nên ngoại đạo không thể lừa dối phật tử,
lấy pháp môn của mình cho là pháp môn của Phật được.
Tóm lại, khi
tu hành theo Phật giáo thì không nên tu tập bất cứ một pháp môn nào khác, mà chỉ
nên tu tập Tri Kiến, Giới Luật và Tứ Niệm Xứ.
Trước khi nhập
diệt, đức Phật đã di chúc: “Sau khi Ta nhập diệt, các vị Tỳ kheo hãy
lấy GIỚI LUẬT và GIÁO PHÁP của Ta mà làm THẦY”. Giáo pháp mà
Ngài đã di chúc ở đây là pháp môn TỨ NIỆM XỨ.
Pháp môn Tứ
Niệm Xứ là pháp môn nhiếp tâm BẤT ĐỘNG cuối cùng của Phật giáo, vì chính người
tu tập sống được với tâm Bất Động là đã chứng đạo. Ở đây không còn tu pháp môn
nào khác nữa. Cho nên pháp môn Tứ Niệm Xứ được xem là pháp môn tu tập cuối cùng
của Phật giáo, gọi là CHÁNH NIỆM. Nơi đây tất cả năng lực làm chủ thân tâm sẽ
được xuất hiện trên mảnh đất Bất Động. BẢY GIÁC CHI cũng xuất hiện đầy đủ trên
tâm Bất Động này. Vì thế, quý vị đừng vội vàng tu tập Tứ Niệm Xứ, mà nên xét lại
tâm mình đã Bất Động chưa, nếu tâm BẤT ĐỘNG thì mới tu tập TỨ NIỆM XỨ,
còn chưa thì nên trở lại tu tập pháp môn TỨ CHÁNH CẦN.
Vì vậy, xin
quý vị đừng hiểu rằng 49 ngày đức Phật ngồi dưới cội bồ đề là tu tập Bốn Thiền,
tức là từ Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền của ngoại đạo. Sự thật,
trong gần 6 tuần đầu, đức Phật tu tập ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng
thiện pháp trong pháp môn TỨ CHÁNH CẦN. Kế đó, hơn 7 ngày cuối cùng, đức Phật
an trú tự nhiên trên TỨ NIỆM XỨ để quét sạch các tà niệm vi tế của thân tâm,
cho đến khi BẢY GIÁC CHI sung mãn thì TỨ THẦN TÚC và TAM MINH xuất hiện. Một kết
quả tâm VÔ LẬU hoàn toàn. Đến đây, chặng đường tu hành làm chủ sinh, già, bệnh
chết của đức Phật đã thành công.
(Trích
sách Pháp tu của Phật làm chủ sinh già bệnh chết, NXB Tôn Giáo – 2013, trang
24-38)

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét