586- TỨ NIỆM XỨ CÂU HỮU VỚI CÁC PHÁP KHÁC
(58:19) Kính thưa Thầy! Nhân dịp sinh nhật lần thứ bảy mươi tám, con xin kính chúc Thầy luôn được an lạc. Con cúi xin Thầy thương tưởng tới các chúng sanh hữu duyên với chánh pháp, con hứa cố gắng tu tập để đền đáp phần nào công ơn dạy bảo của Thầy. Con có vài thắc mắc sau đây xin được Thầy giải đáp!
*Hỏi:* Tu
tập Tứ Niệm Xứ câu hữu với Chánh Niệm Tỉnh Giác là như thế nào? Thầy cho con những
ví dụ cụ thể”.
À, bây giờ
đây là câu hỏi thứ nhất: Tu tập Tứ Niệm Xứ câu hữu với Chánh Niệm Tỉnh Giác là
như thế nào?
Đáp: Nghĩa là bây giờ con ngồi tu tập
Tứ Niệm Xứ, tức là giữ tâm thanh thản, an lạc, vô sự. Bắt đầu bây giờ con thấy
con bị hôn trầm, thùy miên, buồn ngủ. Do như vậy bây giờ con phải đứng dậy ngay
liền, con sẽ tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác trên bước đi của mình, đó là con câu hữu
với cái pháp đó để mà đối đầu với cái hôn trầm, thùy miên của con, dẹp sạch nó
bằng cái phương pháp Chánh Niệm Tỉnh Giác.
Bây giờ con
câu hữu với Tứ Niệm Xứ bằng phương pháp khác nữa, là pháp Thân Hành Niệm. Bây
giờ con không có buồn ngủ, không gì hết nhưng mà con biết rằng tới cái giờ đó
mình sẽ buồn ngủ, và mình hay bị buồn ngủ do đó con tập cái pháp Thân Hành Niệm.
Con tập cái pháp Thân Hành Niệm nó sẽ làm cho con tỉnh, không còn bị buồn ngủ nữa.
Tức là không có buồn ngủ đến, còn khi mà có buồn ngủ đến như câu hỏi của
con: “Câu hữu với Chánh Niệm Tỉnh Giác”, phải không? Thì do đó
buồn ngủ đến, nó có buồn ngủ, nghe nó muốn ngủ, chứ chưa có ngủ. Do đó, con đứng
dậy con đi Chánh Niệm Tỉnh Giác, đi kinh hành Chánh Niệm Tỉnh Giác thì đó là
con đã câu hữu, kết hợp với Tứ Niệm Xứ.
Tứ Niệm Xứ
là pháp chính còn Chánh Niệm Tỉnh Giác là pháp phụ. Mà pháp phụ, nhưng nó lại
là cái phương pháp để đẩy lui chướng ngại pháp là hôn trầm, thùy miên. Sau khi
hôn trầm thùy miên hết rồi, con tỉnh trở lại rồi nó không còn buồn ngủ nữa, thì
con ngồi lại tu Tứ Niệm Xứ như thường. Phải không, như vậy là con hiểu?
(01:00:30) Còn
bây giờ, con muốn câu hữu với pháp Thân Hành Niệm, là con biết rằng mình không
có buồn ngủ, nhưng mình muốn mình hay bị buồn ngủ, vì vậy mình phải tập cái
pháp này để cho nó tỉnh đặng mình tu Tứ Niệm Xứ cho nó trọn vẹn mà mình không bị
buồn ngủ. Con hiểu không?
Cho nên cái
pháp Thân Hành Niệm con tu tập cho nó tỉnh táo hẳn hòi đàng hoàng, nó làm cho
con thức tỉnh, không có buồn ngủ nữa. Bây giờ con tỉnh rồi con mới tu Tứ Niệm Xứ,
Ví dụ chẳng hạn để cho con thấy rõ.
Trước khi tu
Tứ Niệm Xứ thì bắt đầu con tu một tiếng đồng hồ, hai tiếng đồng hồ Thân Hành Niệm
đi rồi con ngồi lại Tứ Niệm Xứ thì nó không bị buồn ngủ, con hiểu không? Đó!
Như vậy là câu hữu với Chánh Niệm Tỉnh Giác, đó là câu thứ nhất.
(01:01:16) - *Hỏi:*
Tu tập Tứ Niệm Xứ câu hữu với Định Vô Lậu như thế nào? Thầy cho con những ví dụ
Định Vô Lậu.
Đáp: À! Bây giờ mấy con thấy đang giữ
tâm thanh thản, an lạc, vô sự nè, bỗng dưng có một cái niệm khởi ra, nếu mà có
niệm thì nó làm cho động cái tâm rồi, cho nên nó mất cái trạng thái thanh thản,
an lạc, vô sự chứ gì? Cho nên vì vậy chữ câu hữu có nghĩa là mình sử dụng cái Định
Vô Lậu là tại vì cái niệm đó, mình tác ý bảo cái niệm đó một lần hai lần mà thấy
sao nó không đi, nó cứ tới lui hoài. “À! Được rồi mày tới lui, tao sẽ áp dụng định
Vô Lậu, tức là tao câu hữu với Định Vô Lậu là mày sẽ đi mất chứ không còn ở đây
được”. Phải không?
Còn nếu mà
con tác ý, con dùng cái pháp Như Lý Tác Ý, con thấy một cái niệm khởi ra, con
tác ý. Ví dụ như cái niệm đó là Ái Kiết Sử, nó nhớ nhà con, nó nhớ mấy đứa cháu
này kia đó, nó khởi ra cái niệm đó. Thì bắt đầu con tác ý: “ Ái Kiết Sử,
mày đi chứ mày không có vô đây được!”. Con biết cái niệm đó là thuộc về Ái
Kiết Sử, vì nó là thương nhớ gia đình mà, thì con biết nó là Ái Kiết Sử.
Hoặc là nó
nhớ bạn bè của nó, làm ăn hay hoặc là đi làm gì đó, là nó nhớ đến người bạn nó,
cũng là Ái Kiết Sử. Thì do đó con tác ý: “Đây là ái kiết sử, mày đi! Ở chỗ
này là thanh thản, an lạc, vô sự”. Thì con nhắc tâm thanh thản, an lạc, vô
sự thì thấy không tới nữa. Nhưng mà rồi một chút nó tới nữa, thì con nói không
được, tác ý kiểu này không được, phải câu hữu với Định Vô Lậu mới được. Con đem
cái niệm Ái Kiết Sử đó đó, con trở thành cái đề tài của Định Vô Lậu, con ngồi
quán xét về Vô Lậu xem cái đường Nhân Quả của Vô lậu như thế nào. Cuối cùng con
như con thấu suốt được cái lý Vô Lậu của cái niệm đó rồi, thì con khỏi cần tác
ý nó cũng đi mất à, con hiểu không? Đó là câu hữu với Định Vô Lậu.
(01:03:04) Nhưng
cái Định Vô Lậu, Thầy xin nhắc lại cái Định Vô Lậu con quán một lần nó chưa thấm
nhuần đâu, nó chưa sâu sắc đâu. Cái đề tài đó con quán một lần rồi, rồi con
nghĩ rằng nó sẽ còn tới lui chứ chưa phải hết, con đưa đề tài đó quán lần nữa,
cũng quán y như vậy lặp đi, lặp lại nhiều lần gọi là Định Vô Lậu.
Một cái niệm
đó, tức là một cái đề tài đó đầu tiên con quán vậy, cuối cùng con quán nữa rồi
nó có thêm bớt gì trong đó cũng tốt không sao hết. Rồi con quán nữa, quán nhiều
lần như vậy, nó thấm nhuần cái niệm đó, thì cái niệm đó nó sẽ không còn có nữa,
nó sẽ diệt đi, nó lui mất đi.
Dùng cái Định
Vô Lậu nó làm cho cái Lậu Hoặc đó không còn nữa gọi là Vô Lậu. Mà nó không phải
mình quán một lần mà nó Vô Lậu được, mà nó nhiều lần. Ví dụ năm lần, ba lần, mười
lần mà thấy cái niệm đó không còn tới nữa là biết nó đã bị diệt rồi, nó đã từ bỏ
rồi. Thì đó là con đã thành công. Chứ đừng nghĩ rằng tôi chỉ tác ý sơ rồi tôi cứ
ôm pháp tôi tập trung trong cái thanh thản này, con bị ức chế đó!
Cho nên đừng
ức chế nó, mà mình đầu tiên thì mình tác ý: “Ái Kiết Sử, đi! Chỗ này không
phải chỗ mày”, mà mình chỉ ra lệnh vậy đó, mà nếu cái đạo lực mình có thì
mình tác ý vậy nó đi mất hà, nó không tới nữa. Nhưng mà nó nhào tới thì mình biết
đạo lực mình chưa đủ. Vậy thì mình phải dùng định Vô Lậu, quét nó bằng Định Vô
Lậu, bằng cái tri kiến, bằng cái sự hiểu biết do đó nó thấm nhuần được, thì nó
không còn. Nó lợi ích như vậy đó con.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét