514- 7- MỐI LIÊN HỆ GIỮA NGHIỆP LỰC VÀ NHÂN QUẢ
(29:33) Phật
tử Anh Vũ: Với có câu hỏi khác nữa là hình như là luật nhân quả và
nghiệp nó có liên hệ với nhau đó, mà nó liên hệ như thế nào? Xin Thầy giải
thích?
Trưởng
lão: Nó liên hệ lắm,
nó liên hệ lắm. Bởi vì Thầy nói như thế này, cái nghiệp đó, là nó thành một cái
thói quen. Cũng như Thầy, hàng ngày Thầy không có hút thuốc thôi, Thầy hút thuốc
điếu đó, mà Thầy cứ hàng ngày, Thầy hút thuốc điếu, cái hành động mà Thầy hút
đó, là cái nhân quả. Con hiểu không? Cái hành động mà Thầy hút. Bây giờ Thầy lấy
điếu thuốc Thầy đốt, Thầy hút. Hay hoặc Thầy, bây giờ Thầy hàng ngày, ngày nào
Thầy cũng uống ly rượu đi. Đó là cái hành động đó. Bây giờ nó trở thành thói
quen, Thầy bỏ không được cái ly rượu, Thầy bỏ không được điếu thuốc là nó nghiệp.
Cái nghiệp là cái thói quen, mà cái hành động đó nó mới làm thành cái thói
quen, con hiểu không?
Cho nên bây
giờ chúng ta tu là chúng ta dùng cái pháp hướng tâm: "Tâm ly tham,
ly sân, ly si đi". Thì có nghĩa là lìa cái cõi tham, sân, si đi,
thì nó tạo thành một cái nghiệp. Bắt đầu mình, bây giờ mình hướng là mình tạo
cái nhân. Con nhắc ví dụ: "Cái tâm ly tham, ly sân, ly si đi, tâm
như cục đất ly tham, sân, si đi". Đó là con mới tạo cái nhân thôi
chứ nó chưa thành nghiệp. Nhưng một năm, hai năm sau nó thành nghiệp. Chừng đó
người ta chửi, con không giận nữa là cái nghiệp của con, nghiệp giải thoát.
Phật tử
Anh Vũ: Đó cũng
là cái quả.
Trưởng
lão: Cái quả đó, đó
là cái quả rồi. Đó, thành ra nhân với cái nghiệp, cái quả của nó, nhân quả đó.
Cái nhân khi con tạo, thì cái nhân mà mình tạo ra tâm không tham, sân, si như cục
đất, thì đó là cái nhân. Phải không? Mà nó quen, thành cái thói quen đó rồi thì
nó thành cái nghiệp, thành cái quả, thì cái quả đó quả giải thoát. Còn hàng
ngày mình cứ, người ta chọc giận, người ta nói gì đó cái mình cứ giận, giận, giận
thì mình huân riết nó thành nghiệp. Cái quả của nó là quả giận. Đụng tới cái giận,
đụng tới cái giận liền, giận nhanh nữa chứ, giận mau nữa chứ.
Phật tử
Anh Vũ: Dạ!
(30:54) Trưởng
lão: Có không? Con thấy không? Đó là như vậy. Vì vậy mà bây giờ mình tu tập
là mình huân cái nghiệp không có giận hờn. Còn cái mình sống hàng ngày, mình
huân cái tham, cái ham muốn, cái giận hờn thì cho nó huân vô thành cái nghiệp của
mình. Đó, đó là cái chỗ mà nhân với nghiệp, quả với nghiệp đó, nó có liên hệ dữ
lắm con. Nếu mà cái này không có thì cái kia không có. Cái nghiệp không có thì
cái quả nó cũng không có, cái nhân cũng không có.
Phật tử
Anh Vũ: Con thấy
có một câu đó là con hướng tâm là: "Cảm giác toàn thân an lạc tôi
biết tôi hít vô". Thì cái chữ "toàn thân" này
đó là, con thấy có người dịch đó là toàn thân thể mình, có người dịch là toàn
thể chiều dài của hơi thở, thì Thầy nghĩ cái nào đúng?
Trưởng
lão: Toàn thân là
cái cảm giác toàn thân là đúng hơn. Mà toàn cơ thể là đúng hơn, mà chiều dài của
hơi thở là không đúng. Chiều dài hơi thở là mình phải theo dõi cái hơi thở ra
vô dài, cho nó xuống tới - Ví dụ mình hít vô tới, mình phải cảm giác theo cái bụng
thì nó thuộc tưởng rồi - chiều dài của hơi thở thì không đúng. Cái đó là sai,
cái đó tưởng rồi, cái ông này tưởng rồi, ông mà dịch đó là tưởng.
Còn toàn
thân, nghĩa là tôi ngồi đây tôi hít vô mà tôi thấy cái thân tôi nó an ổn. Bởi
vì: "An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô" đó, "An
tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra". An tịnh: "Cảm
giác toàn thân tôi biết hít vô, cảm giác toàn thân tôi biết". Tôi
hít vô, tôi cảm giác được toàn thân tôi. Để cho cái tâm mình nó tập trung hết
cái thân của mình, chứ không riêng gì có hơi thở. Con hiểu không? Đó: "Cảm
giác toàn tâm tôi biết tôi hít vô, cảm giác toàn tâm tôi biết tôi thở ra".
Rồi: "An tịnh toàn thân tôi biết tôi hít vô, an tịnh toàn thân
tôi biết tôi thở ra", "An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh
thân hành tôi biết tôi thở ra", rồi: "An tịnh tâm
hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra". Thì
đó là cái sự an tịnh nó toàn thân từ móng tay, móng chân, từ ngón tay, ngón
chân cho đến từ đầu chí đuôi, mình nghe nó an ổn. Bây giờ nó không an ổn, tôi
nhắc cho nó an ổn. Chứ không phải là mục đích tôi nhắc cho cái thân tôi an ổn.
Bây giờ nó không ngồi không, nó ngồi đây mà nó không có an ổn. Nó nghe khó chịu
quá, nó nghe ngứa ngáy, nó này kia, cho nên tôi nhắc cho nó an ổn. Còn cái tôi
nó sao nó cứ nhớ cái này, nhớ kia hoài, nó lăng xăng hoài, nó không có chịu an ổn.
Cho nên tôi nói, tôi phải nhắc nó. Mình nhắc nó: "An tịnh tâm hành
tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra". Tâm
hành tức là cái hơi thở mình ra vô theo cái tâm của mình đó, thì nó gọi là tâm
hành.
Đó! Thì cái
hơi mình theo dõi hơi thở để cho cái hơi thở nó làm cho toàn cái tâm của nó rất
an ổn mà không bị nghĩ ngợi cái gì nữa hết, không bị trạo cử nữa. Đó là mình nhắc.
Khi mà mình bị trạo cử, mình nhắc câu đó hết, còn mình không bị trạo cử thôi.
Con bây giờ con ngồi, con ngồi mà nó cứ phóng ra hoài thôi! Bây giờ không có nhắc
nó hơi thở ra biết ra, hơi thở vô biết vô, nhắc nữa, không nhắc nữa. Mà con phải
nhắc: "An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi
biết tôi thở ra". Chừng nào nó an ổn, con nhắc hơi cái nó an ổn thiệt.
Cái bệnh nó
chứng nào đó thì mình phải nhắc đúng câu pháp hướng chứng nấy. Cũng như giờ nhức
đầu phải trị bệnh nhức đầu, mà mỏi tay phải trị thuốc mỏi tay, chứ con trị trật
nó không hết đâu. Cái câu pháp hướng là cái thuốc để trị ngay cái đối tượng đó,
cái bệnh đó. Cho nên khi mà có bệnh đó thì con trị. Mà không có, mà con lấy con
trị, giờ tôi không nhức đầu mà cứ bắt tôi uống thuốc nhức đầu là không được. Phải
không? Cho nên những cái câu đó đều là những cái câu để chuẩn bị cho chúng ta gặp
cái trường hợp nào đó, thì chúng ta phải hướng tâm nó. Chứ không phải là chúng
ta đem ra chúng ta tu đâu.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét