212- 6- CÁCH ỨC CHẾ Ý THỨC CỦA THAM CÔNG ÁN VÀ THAM THOẠI ĐẦU
(23:24) Bây
giờ Chân Huệ hỏi kế Thầy:
“Kính bạch
Thầy! Tham công án và tham thoại đầu như thế nào? Xin Thầy giải thích cho con
rõ.”
Ở đây thì
chúng ta không dạy tham công án, tham thoại đầu, nhưng mà Chân Huệ hỏi thì Thầy,
dù sao đi nữa các con cũng sắp sửa sẽ là, khi mà các con tu xong, hoặc là đủ
duyên thì các con hướng dẫn người khác tu hành, thì người ta cũng có thể người
ta hỏi về cái vấn đề các pháp môn thiền khác, như Thiền Đông Độ, tham công án,
thoại đầu. Thì các con cũng được Thầy giải thích, rồi ngày nào đó các con cũng
sẽ giải thích cho họ mà không có sai khác, để cho họ hiểu biết thêm, chớ sự thật
chúng ta không tu cái pháp này.
Đáp: “Tham công án và tham thoại
đầu khác nhau, không giống nhau.”
Hai cái pháp
này nó không giống nhau. Bởi vì Chân Huệ hỏi Thầy: “Kính bạch Thầy,
tham công án và thoại đầu khác nhau như thế nào? Xin Thầy giải thích cho con
rõ.” Nghĩa là hai cái pháp này tu tập nó có khác nhau hay không, hay
là giống nhau?
(24:31) Ở
đây thì Thầy trả lời:
“Tham
công án và tham thoại đầu khác nhau, không giống nhau”- đó là câu trả lời thứ nhất.
“Tham
công án tức là tham nghi tình.
Ví dụ
đưa ra một công án, hoặc là hai công án, thì chúng ta nêu lên cái công án thử,
rồi chúng ta thấy cái nghi tình ở chỗ nào.”
Công án thứ
nhất, “Trước khi trời đất chưa sanh, ta là cái gì?” hoặc là “Niệm Phật
là ai?” Đó, thì cái chỗ cái nghi tình, tức là cái câu hỏi, bởi vì “cái
gì”, “là ai”, thì đó là cái chỗ để nhấn mạnh hỏi.
Vậy thì cái
nghi tình đó, nó sẽ đặt ngay cái chỗ “cái gì”, “là ai”. Tức là câu
hỏi đó. Như “cái gì”, “là ai”, và giữ câu hỏi đó trong cái ý thức của
chúng ta, kéo dài thời gian cái ức chế tâm, ức chế Tầm Tứ, cho đến khi ngộ được,
tức là giải đáp được cái câu hỏi “cái gì”, “là ai”, giải đáp
được, thì lúc bấy giờ nó bùng vỡ, nó ngộ được cái chỗ hỏi đó.
Thí dụ như:
“Trước khi trời đất chưa sanh ra mọi vật, chưa sanh mình ra đó, thì mình là
cái gì?” Đó. Cái câu hỏi nó làm cho cái ý thức của chúng ta không thể suy
nghĩ ra được, cho nên nó luôn luôn nó giữ cái ý thức cho nó vắng bặt, nó không
nghĩ ra được nữa.
Bởi vì cái ý
thức nó không thể tìm hiểu ra được, cho nên do đó nó vắng bặt đi, mà nó vắng bặt
thì cái tưởng thức nó sẽ thay thế vào. Cái tưởng thức nó thay thế vào thì nó
bùng vỡ, nó ngộ.
Bởi vì cái ý
thức không thể làm việc này được, mà chỉ có tưởng thức nó mới làm việc được. Mà
cái ý thức nó còn suy nghĩ thì nó không hiểu nổi gì hết. Cho nên “Niệm Phật
là ai?” Ai niệm Phật đây? Thì do đó mình không biết là cái người nào mà niệm
Phật đây? Thì vì vậy, do vì cái câu hỏi như vậy đó, thì gọi là nghi tình, hay
là tham nghi tình, tức là tham công án.
Kéo dài cái
thời gian ức chế tâm đó, để mà diệt Tầm Tứ đó, tức là không còn ý thức nữa, cho
đến khi mà ngộ, tức là đáp được cái câu hỏi đó mới xong. Ngộ được câu hỏi đó tức
là ngộ tất cả các công án khác. Như vậy Thiền Tông gọi là triệt ngộ.
Nghĩa là
mình ngộ được cái câu đó rồi, cái câu hỏi đó mình đã đập vỡ nó được rồi, mình
hiểu rồi, qua cái sức tưởng, pháp tưởng của mình. Mình hiểu được rồi, thì bắt đầu
tất cả những cái công án khác ở trong Thiền Tông mình đều hiểu hết, không có chỗ
nào không hiểu. Mà chỗ nào cũng hiểu hết đó, gọi là triệt ngộ.
Là vì ở
trong thời gian chúng ta dùng cái câu hỏi đó mà chúng ta ức chế cái tâm chúng
ta không có ý thức mà phân biệt cái này cái nọ kia nữa, cho nên nó không có khởi
một cái niệm gì được, nó bị kẹt chính ở trong cái câu hỏi đó. “Ta là cái gì?”
hay hoặc là “Cái gì đây?” Đó nó cứ hỏi hoài ở trong đầu, cứ một lát
chúng ta khởi ra cái niệm hỏi, lát chúng ta khởi niệm hỏi.
(27:26) Chớ
nếu mà chúng ta không hỏi thì nó sẽ có một cái niệm vọng tưởng khác nó xen vô
sao? Cho nên chúng ta muốn kéo dài cái đó nó thì thỉnh thoảng chúng ta đề kháng
cái nghi tình đó lên. “Cái gì?”, để chúng ta nhắc để cho cái câu hỏi nó
luôn luôn, cái nghi tình nó luôn luôn nó ở trong cái đầu của chúng ta, mà các
niệm khác nó không sanh khởi.
Mà nó không
sanh khởi được thì nó ức chế được cái ý thức của chúng ta. Mà nó ức chế được
cái ý thức của chúng ta thì cái tưởng thức nó phải hoạt động. Mà nó hoạt động,
cái tưởng thức nó hoạt động, thì ngay cái hỏi là “cái gì”, “là ai” thì
nó biết liền à, bởi vì nó là tưởng rồi, cho nên nó biết liền, nó biết là cái gì
rồi.
Chỗ mà ý thức
ngưng, thì cái đó mới là cái gọi là Phật Tánh. Cho nên ở đây chúng ta kéo dài
cái trạng thái đó, mà khi nó đã hiểu biết ra, thì nó biết ra cái đó là cái gì.
Cho nên cái như vậy gọi là triệt ngộ, ngộ hết tất cả những công án.
“Tham
thoại đầu tức là tham đầu câu nói.”
Các thầy với
các con hiểu, thoại là nói, mà tham thoại đầu, là đầu câu nói. Nghĩa là chúng
ta chưa cái nói ra cái lời nào hết, thì ngay cái chỗ sắp sửa nói, chưa nói đó,
thì chúng ta tham ngay cái chỗ đó. Thì như vậy là các thầy sẽ hiểu ngay chỗ đó
là cái chỗ gì, cái chỗ “chẳng niệm thiện niệm ác” đó.
Rõ ràng cái
chỗ mà không ý thức nghĩ ngợi một cái gì hết đó, thì đó là cái chỗ thoại đầu
đó. Cho nên cái danh từ nó thì nói như vậy để mà chúng ta tham thoại đầu, chứ sự
thật đó là một cái pháp để chúng ta ngồi lại giữ cái tâm của mình nó không có
cái niệm vọng tưởng.
“Cách
thức này giống như người giữ tâm, ức chế tâm để cho niệm thiện niệm ác không
sanh khởi. Niệm thiện niệm ác không sanh khởi tức là “bản lai diện mục”.”
Đó cho nên,
do cái chỗ tham thoại đầu thì nó ngộ được cái “bản lai diện mục” của nó,
tức là Phật Tánh của nó.
Đó thì, ở chỗ
Chân Huệ hỏi về hai cách tu, hỏi về cái tham thoại đầu với tham công án, đến
đây thì Thầy đã giải thích cho về cái tham thoại đầu và tham công án.
(29:30) Còn
riêng về phần các thiền sư mà thoại đầu với công án, thì họ dạy theo La Quảng
thiền sư, hay hoặc là theo Hư Vân Hòa Thượng, thì nó có sách vở của nó. Nhưng
mà ở đây đại khái Thầy giải thích như vậy để chúng ta hiểu, biết cách thức họ
tu, đơn sơ vậy. Còn cái mà họ vẽ ra thế này thế khác nữa thì chúng ta không đi
vào cái chi tiết của họ nhiều, nhưng mà chúng ta biết như vậy.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét