213- 7- Ý NGHĨA THANH VĂN, DUYÊN GIÁC, BỒ TÁT.
(29:54) Hỏi: “Kính
bạch Thầy! Bên Đại thừa dùng chữ Thinh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát”
Chân Huệ hỏi
Thầy Duyên Giác, Bồ Tát mà thôi. Còn ở đây thật sự ra, ở đây thì phải nói rằng
trong kinh điển thường nói Thinh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, thì câu hỏi của Thiện
(Chân) Huệ thì nó chỉ có hai là Duyên Giác và Bồ Tát. Thầy thêm cái chữ Thinh
Văn để cho nó đủ toàn bộ, để cho đủ cái chỗ cấp bậc của kinh điển Đại Thừa nó sắp
xếp, để coi nó sắp xếp như thế nào?
Hỏi: “Kính bạch Thầy! Bên Đại Thừa
thường dùng chữ Thinh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát, có phải để chỉ người tu đạt được
quả vị nào đó hay không? Xin Thầy dạy bảo cho con được phân biệt”
Đáp: “Bên Đại Thừa thường xếp
loại cao thấp quả vị tu, cũng như cách thức làm lợi ích chúng sanh nhiều hay
ít.”
Nó tùy theo
cái chỗ mà nó sắp xếp để mà nó có cái cao cái thấp, cho nên nó mới có Tam Thừa
đó. Tam Thừa ở đây là Thinh Văn Thừa nè, Duyên Giác Thừa nè, Bồ Tát Thừa nè.
Cho nên nói
ví dụ lấy ví dụ như Thinh Văn Thừa là xe dê, rồi Duyên Giác thừa là xe nai, rồi
Bồ Tát thừa là xe trâu vậy đó, nghĩa là xe lớn, còn mấy cái kia là xe nhỏ, xe
con, không có xứng đáng. Do đó mà nó có ý nghĩa như vậy.
Đáp: “Bên Đại Thừa thường xếp
loại cao thấp quả vị.”
Tức là đứng ở
trên cái chỗ đó mới xếp loại cao thấp quả vị của cái người tu,
“Cũng
như cách thức làm lợi ích cho chúng sanh nhiều ít, lấy cái chỗ độ chúng sanh.”
Cho nên Bồ
Tát Hạnh nó có, chớ ai bao giờ mà nói Thinh Văn Hạnh bao giờ, hay hoặc là Duyên
Giác Hạnh đâu? Không có cái đó, nhưng mà có nói là Bồ Tát Hạnh.
“Nên
Thinh Văn là bậc nghe pháp Phật dạy mà đoạn dứt phiền não, đắc quả A La Hán.”
(31:52) Cái
người mà nghe Phật dạy rồi nỗ lực tu tập đoạn dứt phiền não, đắc quả A La Hán gọi
là Thinh Văn.
“Chưa
có làm lợi ích cho chúng sanh”
Tức là chưa
độ chúng sanh, gọi bậc Thinh Văn. Mình vừa nghe Phật dạy pháp, rồi bắt đầu mình
nỗ lực mình đoạn dứt các cái pháp ác, xa lìa các pháp ác, để rồi mình thành tựu
được thiện pháp, mình chứng được Niết Bàn, chứng được quả A La Hán, mình gọi là
Thinh Văn.
“Bậc
Duyên Giác là bậc giác ngộ thông suốt lý Mười Hai Nhân Duyên nên xả bỏ đoạn dứt
Ngũ Triền Cái và Thất Kiết Sử, chứng quả A La Hán, tự mình tu, không phải nghe
Phật dạy.”
Người nào mà
nghe những cái bài thuyết pháp của Phật rồi tu chứng quả A la hán thì gọi là
Thinh Văn. Còn cái người nào mà tự mình tu mà thông suốt được cái lý mười hai
nhân duyên, để rồi đoạn dứt cái cuộc sống của mình đó, tức là đoạn dứt sanh, “sanh
đã tận, Phạm Hạnh mới xong” đó, họ bứt bỏ hết tất cả những cái dây mơ, rễ
má trói buộc họ đó, thì họ tự tu như vậy đó, thì gọi là Duyên Giác, họ chứng quả
được A La Hán.
Cái tu chứng
này không do Phật dạy mà do tự người đó, mà tự ngộ ra, tự tu ra, cho nên bậc
Duyên Giác còn gọi là Độc Giác Phật. Độc Giác Phật là ông đó ông tự tu ông chứng,
chớ không có cái người nào mà giúp ổng hết.
Ví dụ như cuộc
sống của Thầy, Thầy đã thực hiện một đời Độc Giác, cho nên không có người hướng
dẫn cái pháp, mà Thầy tự tu để mà ngộ lấy những cái sự giải thoát cho chính
mình. Rồi bây giờ đem ra giảng dạy cho các con, thì các con đều là bậc Thinh
Văn, còn Thầy là Duyên Giác mà thôi. Đó thì Duyên Giác là tự mình tu, còn các
con bây giờ nghe Thầy dạy rồi tu, rồi giải thoát được, thì các con là Thinh
Văn.
Còn cái tu
mà giải thoát, thì Thầy Duyên Giác giải thoát sao, thì các con Thinh Văn cũng
giải thoát như vậy, chớ nó không có hơn cao thấp, không phải là Thinh Văn thấp
hơn là Duyên Giác mà Duyên Giác là cao hơn Thinh Văn, không phải.
Hai cái này
nó y như nhau, nó giống nhau, nhưng mà vì cái hành trì mà tu tập, thì các con
được nghe Thầy giảng dạy, đem kinh nghiệm của Thầy dạy lại, cho nên gọi là
Thinh Văn. Còn Thầy Duyên Giác là tự Thầy ngộ ra được một cái lý của Phật pháp
rồi đoạn dứt các tham, sân si, phiền não của mình, rồi ngộ ra được những cái lý
đó mà không có Phật dạy, tự mình, cho nên còn gọi một cái tên nữa, bậc Duyên
Giác còn gọi cái tên là Độc Giác Phật.
Cho nên các
con nghe nói Độc Giác Phật chớ các con không biết là Duyên Giác hay là Độc Giác
Phật. Do cái chỗ hỏi này nó có, bởi vì trong nhà Phật, nếu chúng ta học mà
chúng ta không hiểu hết những cái điều kiện này, thì coi như là sự thiếu khuyết
của chúng ta rất lớn, chúng ta phải học và phải hiểu hết.
(34:42) “Đại
Thừa cho hai bậc tu này là Tiểu Thừa”
Nghĩa là cho
cái bậc Độc Giác Phật này, gọi là Duyên Giác này, với Thinh Văn này là Tiểu Thừa
là cái xe nhỏ, chớ không phải là xe lớn, còn Đại Thừa là cái xe lớn.
“Trong
kinh Đại Thừa Niết Bàn cho hàng Thanh Văn, Duyên Giác”
Nghĩa là cái
Thanh Văn, Duyên Giác mà Thầy nói lại gọi là Tiểu Thừa đó,
“Như
là trẻ con chưa biết gì hết, còn Đại Thừa như người lớn biết tất cả.”
Đó ở bên Đại
Thừa thì nó phân biệt, nó cho chúng ta thấy, đó là trong cái bộ kinh Đại Thừa
Niết Bàn, Duyên Giác đó, ở trong đó nó có những cái bài kinh dạy, thì Thầy đã đọc
và đã nhớ nó như vậy rất rõ ràng. Là hiện bây giờ những cái lời văn viết ở
trong đó nó cũng còn y như thế này, nó có sự so sánh phân biệt để chúng ta thấy
rất rõ, chớ không phải là Thầy đặt cái chuyện này ra, mà chính ở trong kinh Niết
Bàn đã nói, cái bài kinh đó đã nói cái này rất rõ.
“Trong
kinh Đại Thừa Niết Bàn, cho hàng Thinh Văn, Duyên Giác như trẻ con chưa biết gì
hết, còn Đại Thừa thì như người lớn tuổi biết tất cả. Tiểu Thừa như người mới
vô trồng, còn Đại Thừa như người gặt hái quả.”
Nghĩa là Tiểu
Thừa như người mới có gieo, mới có cấy cái cây lúa xuống thôi chớ chưa có hột
lúa ăn, còn Đại Thừa là người đã gặt lúa, đã hái quả đem về ăn rồi.
(36:07) “Tiểu
Thừa như đứa trẻ mới học, tập viết, tập đọc, còn Đại Thừa như người đã đọc qua
kinh điển cao siêu và thâm mật.”
Đó nó so
sánh ở trong đó, những cái danh từ đó đều là do kinh đó mà so sánh như vậy.
Thì các con
cũng thấy rằng, Đại Thừa nó nói vậy chớ nó không làm được chủ sanh tử, mà nó
dám nói rất là cao siêu, nó là thâm mật lắm, nó là như người đã đọc qua kinh điển
cao siêu thâm mật, nó là như người mà đã viết rành chữ. Còn Tiểu Thừa như là đứa
trẻ mới có tập viết, tập đọc mà thôi, cũng như người nông dân mà mới gieo trồng
cây lúa thôi, chưa có gặt hái được ăn. Còn Đại Thừa thì nó đem về nó ăn rồi, tức
là cái quả của nó lớn như vậy đó.
“Đó là
mục đích thâm độc,”
Ở đây Thầy kết
luận chỗ mà, khi mà cái bài kinh này, do mấy con hỏi, buộc lòng Thầy phải có những
cái lời nói và cũng là phải giải thích, rồi cũng phải có cái kết luận của nó.
“Đó là
mục đích thâm độc của Phật giáo phát triển, diệt Phật giáo nguyên thủy khôn
khéo, mà người có trí tuệ mới nhận ra được.”
Bởi vì nó xếp
loại như vậy chớ nó không phải nó bác Phật giáo nguyên thủy là ngoại đạo này
kia, nó không có nói, mà sách nó viết cái hàng đó.
Mà sự thật
nó không có tu cái pháp của Nguyên Thủy đâu. Từ cái bắt đầu vô, nếu mà nó sắp
loại là Tiểu Thừa thì nó phải đi từ cái Tiểu Thừa nó đi lên, nó không bao giờ
tu đâu. Cho nên các thầy thấy, hầu hết là các nhà Đại Thừa họ không bao giờ họ
giữ giới đâu. Cho nên họ không có đi tu từng cái Tiểu Thừa đâu.
Nếu mà nó sắp
xếp là cái Tiểu Thừa là cái cấp bậc như mình lớp một, lớp hai đi, thì ít ra các
nhà Đại Thừa họ phải đi từ cái lớp một, lớp hai lên chớ? Đằng này họ bỏ lớp một,
lớp hai, họ nhảy qua, họ vô đại học họ ngồi ở trên đó.
Họ nói là
tôi là thâm sâu, cao siêu, hiểu biết những kinh điển cao rồi, còn cái Tiểu Thừa
thì mới có tập viết, tập đọc, bập bẹ, có nhằm nhò gì với tôi đâu! Mà ông ta ổng
không chịu tập viết, tập đọc mà ổng trèo lên đại học ông ngồi, thì thử hỏi, các
con thấy ông học được không?
Cho nên đó
là cái thâm độc của ngoại đạo, của tôn giáo khác mà trong lúc bấy giờ ở bên Ấn
Độ, nó khôn khéo, nó đội lốt tu sĩ Phật giáo, rồi nó vô đó nó triển khai cái
pháp. (38:24) Nó cũng dựa vào đó nó nói Phật thuyết này kia nọ, nhưng
mà nó dìm lần, dìm lần xuống Chánh Pháp của Phật một cách khôn khéo, rất là
khôn khéo.
Thậm chí như
kinh Nguyên Thủy mà nó còn dám thêm bớt ở trong đó, nó làm đảo lộn tất cả những
cái bài kinh, làm chúng ta bây giờ không biết cái bài kinh đó, như thế nào tu
trước, như thế nào tu sau? Nó dám như vậy, nó dám làm những chuyện đó.
Như vậy các
thầy thấy các Tổ, mà gọi là 33 vị Tổ, mà họ xiển dương về cái đường lối Đại Thừa,
thì trong đó đã 33 vị Tổ chớ không phải là một vị Tổ nữa, 28 vị Tổ ở Ấn Độ, còn
6 vị Tổ ở Trung Hoa.
Nó đã triển
khai tất cả những cái giáo pháp này để nó dìm cái giáo pháp của chính của đạo
Phật xuống. Bây giờ chúng ta đi tìm lại, chúng ta thấy rất là vất vả, gian nan.
Mà trong khi nó tu chẳng ra gì hết, bởi vì nó bỏ cái lớp A, B, C tập đọc, tập
viết mà.
Đó cho nên ở
đây Thầy kết luận để cho chúng ta thấy, đó là mục đích thâm độc của ngoại đạo
mà Thầy nói rằng “Đó là thâm độc của Phật giáo phát triển, diệt Phật giáo
nguyên thủy khéo léo mà người có trí mới nhận ra được”.
Người không
trí thì không nhận ra được, người không trí thì cứ nhận đó là Đại Thừa, đó là
Phật giáo rồi, Phật giáo này ngon rồi. Mình mà tu được Đại Thừa là ngon rồi, vừa
tu mà vừa độ người, nghĩa là hạnh phúc biết bao, làm lợi ích cho chúng sanh, nó
có gì đâu!
“Còn Bồ
Tát là hàng đẳng cấp cao, tu tập từ sơ địa đến thập địa, là quả vị Phật, không
qua đường lối tu tập của Tiểu Thừa.”
Nghĩa là
không có đi qua cái đường lối của Tiểu Thừa. Từ cái sơ địa nó vẽ ra một cái đường
lối khác của nó tu, cho nên nó không có, nó dìm Phật giáo xuống Tiểu Thừa,
nhưng không bao giờ nó tu cái pháp Tiểu Thừa đó, mà nó tu từ cái sơ địa cho đến
thập địa mà thôi.
Ở đây Thầy
cũng kể sơ ra để cho các thầy thấy rằng cái thập địa nó gồm có cái gì, chớ nếu
không đó Thầy nói thập địa, rồi tới chừng đó người ta hỏi thập địa là gì, tên
gì, không biết gì hết trơn mới chết được đó chớ.
Cho nên ở
đây nó không phải là nó có những cái tên thập địa này không, mà nó còn nhiều
tên nữa lận, đọc trong kinh sách của Đại Thừa nó đặt ra nhiều tên thập địa lắm
chớ nó không phải không. Nhưng mà đây Thầy thấy rằng cái này nó cũng tạm để cho
các thầy và các con sau này cũng hiểu.
“Thập
địa nó gồm có: một là Càn huệ địa.”
Nó có những
cái tên, từ của nó dữ tợn lắm!
“Hai
là Tánh địa; ba là Nhập nhơn địa; bốn là Kiến địa; năm là Bạt địa; sáu là Ly dục
địa; bảy là Dĩ biện địa; tám là Chi Phật địa, chín là Bồ Tát địa; mười là Phật
địa.”
Bởi vì nếu
mà mình học về Phật pháp mà mình không nghiên cứu kỹ về vấn đề này, thì trong
khi như Chân Huệ mà hỏi Thầy mà Thầy không giảng hết cái này, thì các con cũng
không cái hiểu được, mà giảng hết thì nó cũng mất thì giờ nhiều lắm cho con đường
tu tập.
Nhưng dù sao
chúng ta là những người văn, tức là chúng ta học, học phải hiểu biết, hiểu biết
để chuẩn bị cho chúng ta đương đầu với cái con đường của ngoại đạo, nó đang dìm
Phật giáo, dìm kinh sách của Phật giáo, dìm cái chân lý của Phật giáo xuống tận
dưới bùn, nó không bao giờ nó để cho ngóc đầu dậy.
“Trái
lại, trong kinh Nguyên Thủy thì Bồ Tát chỉ là một người tu chưa chứng, chưa
thành đạo.”
Ở trong kinh
Nguyên Thủy thì nó xác định rằng, một vị Bồ Tát là một người tu chưa chứng. (41:59) Thí
dụ như Bồ Tát Phổ Minh đi xuống, từ ở trên cung trời Đâu Suất đi xuống thế này,
đi tái sanh thành Đức Phật Thích Ca sau này, đó là Bồ Tát.
Cho nên Bồ
Tát tu chưa chứng. Gì mà trải qua nhiều đời nhiều kiếp Bồ Tát phải tu hạnh nhẫn
nhục, phải tu tùy thuận bằng lòng, phải tu Tứ Vô Lượng Tâm, đó là những cái hạnh
tu của những vị Bồ Tát.
Coi như là
đâu có làm sao mà những vị Bồ Tát này nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ
Thiền được. Tất cả những bậc A La Hán người ta mới làm được chuyện đó, còn Bồ
Tát thì chỉ nhẫn nhục mà thôi.
Cho nên cái
trạng thái nhẫn nhục đó mà Thầy thường nói với các con, là trạng thái của cõi
trời Đâu Suất. Cái người mà nhẫn nhục được thì cái người đó sẽ ở trong cái cõi
trời Đâu Suất chớ chưa phải là ở cõi trời nào hết. Tức là cái trạng thái tâm của
chúng ta là, trạng thái đó là cõi trời Đâu Suất.
Cho nên Bồ
Tát tu nhiều đời nhẫn nhục, rồi bố thí, cả thậm chí như bố thí thân mạng của
mình cho cọp ăn, bố thí cả vợ con, tất cả những cái đó đều bố thí, tất cả hết.
Cho nên tu đó, hạnh nhẫn nhục, bố thí đó, thì làm những cái điều đó.
Cho nên cái
một người cư sĩ, thường thường quý thầy họ hay nói cái vận của họ, nghe nó
cũng, cái vận Đại Thừa, khi có một người cư sĩ nào đến làm công quả hoặc là
cúng dường cái gì đó, thì họ kêu cái vị cư sĩ đó là Bồ Tát, coi như là sơ phát
tâm Bồ Tát đó, hay hoặc là sơ địa Bồ Tát.
Cái người mà
mới làm công quả chùa, cày cấy thì làm phụ, mà nấu cơm, nấu nước thì vô mà làm
phụ, gọi là công quả đó, thì cái đó gọi là Bồ Tát. Hoặc là cái vị đó đem tiền bạc,
cơm gạo đến cúng dường thì gọi cái vị đó là Bồ Tát. Cho nên nó có cái điều kiện
họ gọi cái danh từ đó.
Cho nên ở
đây chúng ta phải hiểu rằng, đứng ở trong góc độ Nguyên Thủy thì cái vị Bồ Tát
đó chưa có thành tựu gì hết. Còn ở bên Đại Thừa thì vị Bồ Tát đó là một cái đẳng
cấp cao, họ là cái xe lớn rồi, cho nên họ vừa chở họ, mà vừa chở bao nhiêu người
ở trên đó nữa đi.
Cho nên từ
đó họ chở đi luôn xuống dưới hố hết trơn hết trọi! Vì vậy bây giờ đó, chùa thì
phạm giới, phá giới, thiếu đạo đức, cho nên họ chở luôn xuống dưới hố thẳm, cho
nên vì vậy mà nhìn hình ảnh đó mà chúng ta đau lòng.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét