Thứ Tư, 14 tháng 2, 2024

213- 7- Ý NGHĨA THANH VĂN, DUYÊN GIÁC, BỒ TÁT.

 

213- 7- Ý NGHĨA THANH VĂN, DUYÊN GIÁC, BỒ TÁT.

(29:54) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Bên Đại thừa dùng chữ Thinh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát”

Chân Huệ hỏi Thầy Duyên Giác, Bồ Tát mà thôi. Còn ở đây thật sự ra, ở đây thì phải nói rằng trong kinh điển thường nói Thinh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, thì câu hỏi của Thiện (Chân) Huệ thì nó chỉ có hai là Duyên Giác và Bồ Tát. Thầy thêm cái chữ Thinh Văn để cho nó đủ toàn bộ, để cho đủ cái chỗ cấp bậc của kinh điển Đại Thừa nó sắp xếp, để coi nó sắp xếp như thế nào?

Hỏi: “Kính bạch Thầy! Bên Đại Thừa thường dùng chữ Thinh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát, có phải để chỉ người tu đạt được quả vị nào đó hay không? Xin Thầy dạy bảo cho con được phân biệt”

Đáp“Bên Đại Thừa thường xếp loại cao thấp quả vị tu, cũng như cách thức làm lợi ích chúng sanh nhiều hay ít.”

Nó tùy theo cái chỗ mà nó sắp xếp để mà nó có cái cao cái thấp, cho nên nó mới có Tam Thừa đó. Tam Thừa ở đây là Thinh Văn Thừa nè, Duyên Giác Thừa nè, Bồ Tát Thừa nè.

Cho nên nói ví dụ lấy ví dụ như Thinh Văn Thừa là xe dê, rồi Duyên Giác thừa là xe nai, rồi Bồ Tát thừa là xe trâu vậy đó, nghĩa là xe lớn, còn mấy cái kia là xe nhỏ, xe con, không có xứng đáng. Do đó mà nó có ý nghĩa như vậy.

Đáp: “Bên Đại Thừa thường xếp loại cao thấp quả vị.”

Tức là đứng ở trên cái chỗ đó mới xếp loại cao thấp quả vị của cái người tu,

“Cũng như cách thức làm lợi ích cho chúng sanh nhiều ít, lấy cái chỗ độ chúng sanh.”

Cho nên Bồ Tát Hạnh nó có, chớ ai bao giờ mà nói Thinh Văn Hạnh bao giờ, hay hoặc là Duyên Giác Hạnh đâu? Không có cái đó, nhưng mà có nói là Bồ Tát Hạnh.

“Nên Thinh Văn là bậc nghe pháp Phật dạy mà đoạn dứt phiền não, đắc quả A La Hán.”

(31:52) Cái người mà nghe Phật dạy rồi nỗ lực tu tập đoạn dứt phiền não, đắc quả A La Hán gọi là Thinh Văn.

“Chưa có làm lợi ích cho chúng sanh”

Tức là chưa độ chúng sanh, gọi bậc Thinh Văn. Mình vừa nghe Phật dạy pháp, rồi bắt đầu mình nỗ lực mình đoạn dứt các cái pháp ác, xa lìa các pháp ác, để rồi mình thành tựu được thiện pháp, mình chứng được Niết Bàn, chứng được quả A La Hán, mình gọi là Thinh Văn.

“Bậc Duyên Giác là bậc giác ngộ thông suốt lý Mười Hai Nhân Duyên nên xả bỏ đoạn dứt Ngũ Triền Cái và Thất Kiết Sử, chứng quả A La Hán, tự mình tu, không phải nghe Phật dạy.”

Người nào mà nghe những cái bài thuyết pháp của Phật rồi tu chứng quả A la hán thì gọi là Thinh Văn. Còn cái người nào mà tự mình tu mà thông suốt được cái lý mười hai nhân duyên, để rồi đoạn dứt cái cuộc sống của mình đó, tức là đoạn dứt sanh, “sanh đã tận, Phạm Hạnh mới xong” đó, họ bứt bỏ hết tất cả những cái dây mơ, rễ má trói buộc họ đó, thì họ tự tu như vậy đó, thì gọi là Duyên Giác, họ chứng quả được A La Hán.

Cái tu chứng này không do Phật dạy mà do tự người đó, mà tự ngộ ra, tự tu ra, cho nên bậc Duyên Giác còn gọi là Độc Giác Phật. Độc Giác Phật là ông đó ông tự tu ông chứng, chớ không có cái người nào mà giúp ổng hết.

Ví dụ như cuộc sống của Thầy, Thầy đã thực hiện một đời Độc Giác, cho nên không có người hướng dẫn cái pháp, mà Thầy tự tu để mà ngộ lấy những cái sự giải thoát cho chính mình. Rồi bây giờ đem ra giảng dạy cho các con, thì các con đều là bậc Thinh Văn, còn Thầy là Duyên Giác mà thôi. Đó thì Duyên Giác là tự mình tu, còn các con bây giờ nghe Thầy dạy rồi tu, rồi giải thoát được, thì các con là Thinh Văn.

Còn cái tu mà giải thoát, thì Thầy Duyên Giác giải thoát sao, thì các con Thinh Văn cũng giải thoát như vậy, chớ nó không có hơn cao thấp, không phải là Thinh Văn thấp hơn là Duyên Giác mà Duyên Giác là cao hơn Thinh Văn, không phải.

Hai cái này nó y như nhau, nó giống nhau, nhưng mà vì cái hành trì mà tu tập, thì các con được nghe Thầy giảng dạy, đem kinh nghiệm của Thầy dạy lại, cho nên gọi là Thinh Văn. Còn Thầy Duyên Giác là tự Thầy ngộ ra được một cái lý của Phật pháp rồi đoạn dứt các tham, sân si, phiền não của mình, rồi ngộ ra được những cái lý đó mà không có Phật dạy, tự mình, cho nên còn gọi một cái tên nữa, bậc Duyên Giác còn gọi cái tên là Độc Giác Phật.

Cho nên các con nghe nói Độc Giác Phật chớ các con không biết là Duyên Giác hay là Độc Giác Phật. Do cái chỗ hỏi này nó có, bởi vì trong nhà Phật, nếu chúng ta học mà chúng ta không hiểu hết những cái điều kiện này, thì coi như là sự thiếu khuyết của chúng ta rất lớn, chúng ta phải học và phải hiểu hết.

(34:42) “Đại Thừa cho hai bậc tu này là Tiểu Thừa”

Nghĩa là cho cái bậc Độc Giác Phật này, gọi là Duyên Giác này, với Thinh Văn này là Tiểu Thừa là cái xe nhỏ, chớ không phải là xe lớn, còn Đại Thừa là cái xe lớn.

“Trong kinh Đại Thừa Niết Bàn cho hàng Thanh Văn, Duyên Giác”

Nghĩa là cái Thanh Văn, Duyên Giác mà Thầy nói lại gọi là Tiểu Thừa đó,

“Như là trẻ con chưa biết gì hết, còn Đại Thừa như người lớn biết tất cả.”

Đó ở bên Đại Thừa thì nó phân biệt, nó cho chúng ta thấy, đó là trong cái bộ kinh Đại Thừa Niết Bàn, Duyên Giác đó, ở trong đó nó có những cái bài kinh dạy, thì Thầy đã đọc và đã nhớ nó như vậy rất rõ ràng. Là hiện bây giờ những cái lời văn viết ở trong đó nó cũng còn y như thế này, nó có sự so sánh phân biệt để chúng ta thấy rất rõ, chớ không phải là Thầy đặt cái chuyện này ra, mà chính ở trong kinh Niết Bàn đã nói, cái bài kinh đó đã nói cái này rất rõ.

“Trong kinh Đại Thừa Niết Bàn, cho hàng Thinh Văn, Duyên Giác như trẻ con chưa biết gì hết, còn Đại Thừa thì như người lớn tuổi biết tất cả. Tiểu Thừa như người mới vô trồng, còn Đại Thừa như người gặt hái quả.”

Nghĩa là Tiểu Thừa như người mới có gieo, mới có cấy cái cây lúa xuống thôi chớ chưa có hột lúa ăn, còn Đại Thừa là người đã gặt lúa, đã hái quả đem về ăn rồi.

(36:07) “Tiểu Thừa như đứa trẻ mới học, tập viết, tập đọc, còn Đại Thừa như người đã đọc qua kinh điển cao siêu và thâm mật.”

Đó nó so sánh ở trong đó, những cái danh từ đó đều là do kinh đó mà so sánh như vậy.

Thì các con cũng thấy rằng, Đại Thừa nó nói vậy chớ nó không làm được chủ sanh tử, mà nó dám nói rất là cao siêu, nó là thâm mật lắm, nó là như người đã đọc qua kinh điển cao siêu thâm mật, nó là như người mà đã viết rành chữ. Còn Tiểu Thừa như là đứa trẻ mới có tập viết, tập đọc mà thôi, cũng như người nông dân mà mới gieo trồng cây lúa thôi, chưa có gặt hái được ăn. Còn Đại Thừa thì nó đem về nó ăn rồi, tức là cái quả của nó lớn như vậy đó.

“Đó là mục đích thâm độc,”

Ở đây Thầy kết luận chỗ mà, khi mà cái bài kinh này, do mấy con hỏi, buộc lòng Thầy phải có những cái lời nói và cũng là phải giải thích, rồi cũng phải có cái kết luận của nó.

“Đó là mục đích thâm độc của Phật giáo phát triển, diệt Phật giáo nguyên thủy khôn khéo, mà người có trí tuệ mới nhận ra được.”

Bởi vì nó xếp loại như vậy chớ nó không phải nó bác Phật giáo nguyên thủy là ngoại đạo này kia, nó không có nói, mà sách nó viết cái hàng đó.

Mà sự thật nó không có tu cái pháp của Nguyên Thủy đâu. Từ cái bắt đầu vô, nếu mà nó sắp loại là Tiểu Thừa thì nó phải đi từ cái Tiểu Thừa nó đi lên, nó không bao giờ tu đâu. Cho nên các thầy thấy, hầu hết là các nhà Đại Thừa họ không bao giờ họ giữ giới đâu. Cho nên họ không có đi tu từng cái Tiểu Thừa đâu.

Nếu mà nó sắp xếp là cái Tiểu Thừa là cái cấp bậc như mình lớp một, lớp hai đi, thì ít ra các nhà Đại Thừa họ phải đi từ cái lớp một, lớp hai lên chớ? Đằng này họ bỏ lớp một, lớp hai, họ nhảy qua, họ vô đại học họ ngồi ở trên đó.

Họ nói là tôi là thâm sâu, cao siêu, hiểu biết những kinh điển cao rồi, còn cái Tiểu Thừa thì mới có tập viết, tập đọc, bập bẹ, có nhằm nhò gì với tôi đâu! Mà ông ta ổng không chịu tập viết, tập đọc mà ổng trèo lên đại học ông ngồi, thì thử hỏi, các con thấy ông học được không?

Cho nên đó là cái thâm độc của ngoại đạo, của tôn giáo khác mà trong lúc bấy giờ ở bên Ấn Độ, nó khôn khéo, nó đội lốt tu sĩ Phật giáo, rồi nó vô đó nó triển khai cái pháp. (38:24) Nó cũng dựa vào đó nó nói Phật thuyết này kia nọ, nhưng mà nó dìm lần, dìm lần xuống Chánh Pháp của Phật một cách khôn khéo, rất là khôn khéo.

Thậm chí như kinh Nguyên Thủy mà nó còn dám thêm bớt ở trong đó, nó làm đảo lộn tất cả những cái bài kinh, làm chúng ta bây giờ không biết cái bài kinh đó, như thế nào tu trước, như thế nào tu sau? Nó dám như vậy, nó dám làm những chuyện đó.

Như vậy các thầy thấy các Tổ, mà gọi là 33 vị Tổ, mà họ xiển dương về cái đường lối Đại Thừa, thì trong đó đã 33 vị Tổ chớ không phải là một vị Tổ nữa, 28 vị Tổ ở Ấn Độ, còn 6 vị Tổ ở Trung Hoa.

Nó đã triển khai tất cả những cái giáo pháp này để nó dìm cái giáo pháp của chính của đạo Phật xuống. Bây giờ chúng ta đi tìm lại, chúng ta thấy rất là vất vả, gian nan. Mà trong khi nó tu chẳng ra gì hết, bởi vì nó bỏ cái lớp A, B, C tập đọc, tập viết mà.

Đó cho nên ở đây Thầy kết luận để cho chúng ta thấy, đó là mục đích thâm độc của ngoại đạo mà Thầy nói rằng “Đó là thâm độc của Phật giáo phát triển, diệt Phật giáo nguyên thủy khéo léo mà người có trí mới nhận ra được”.

Người không trí thì không nhận ra được, người không trí thì cứ nhận đó là Đại Thừa, đó là Phật giáo rồi, Phật giáo này ngon rồi. Mình mà tu được Đại Thừa là ngon rồi, vừa tu mà vừa độ người, nghĩa là hạnh phúc biết bao, làm lợi ích cho chúng sanh, nó có gì đâu!

“Còn Bồ Tát là hàng đẳng cấp cao, tu tập từ sơ địa đến thập địa, là quả vị Phật, không qua đường lối tu tập của Tiểu Thừa.”

Nghĩa là không có đi qua cái đường lối của Tiểu Thừa. Từ cái sơ địa nó vẽ ra một cái đường lối khác của nó tu, cho nên nó không có, nó dìm Phật giáo xuống Tiểu Thừa, nhưng không bao giờ nó tu cái pháp Tiểu Thừa đó, mà nó tu từ cái sơ địa cho đến thập địa mà thôi.

Ở đây Thầy cũng kể sơ ra để cho các thầy thấy rằng cái thập địa nó gồm có cái gì, chớ nếu không đó Thầy nói thập địa, rồi tới chừng đó người ta hỏi thập địa là gì, tên gì, không biết gì hết trơn mới chết được đó chớ.

Cho nên ở đây nó không phải là nó có những cái tên thập địa này không, mà nó còn nhiều tên nữa lận, đọc trong kinh sách của Đại Thừa nó đặt ra nhiều tên thập địa lắm chớ nó không phải không. Nhưng mà đây Thầy thấy rằng cái này nó cũng tạm để cho các thầy và các con sau này cũng hiểu.

“Thập địa nó gồm có: một là Càn huệ địa.”

Nó có những cái tên, từ của nó dữ tợn lắm!

“Hai là Tánh địa; ba là Nhập nhơn địa; bốn là Kiến địa; năm là Bạt địa; sáu là Ly dục địa; bảy là Dĩ biện địa; tám là Chi Phật địa, chín là Bồ Tát địa; mười là Phật địa.”

Bởi vì nếu mà mình học về Phật pháp mà mình không nghiên cứu kỹ về vấn đề này, thì trong khi như Chân Huệ mà hỏi Thầy mà Thầy không giảng hết cái này, thì các con cũng không cái hiểu được, mà giảng hết thì nó cũng mất thì giờ nhiều lắm cho con đường tu tập.

Nhưng dù sao chúng ta là những người văn, tức là chúng ta học, học phải hiểu biết, hiểu biết để chuẩn bị cho chúng ta đương đầu với cái con đường của ngoại đạo, nó đang dìm Phật giáo, dìm kinh sách của Phật giáo, dìm cái chân lý của Phật giáo xuống tận dưới bùn, nó không bao giờ nó để cho ngóc đầu dậy.

“Trái lại, trong kinh Nguyên Thủy thì Bồ Tát chỉ là một người tu chưa chứng, chưa thành đạo.”

Ở trong kinh Nguyên Thủy thì nó xác định rằng, một vị Bồ Tát là một người tu chưa chứng. (41:59) Thí dụ như Bồ Tát Phổ Minh đi xuống, từ ở trên cung trời Đâu Suất đi xuống thế này, đi tái sanh thành Đức Phật Thích Ca sau này, đó là Bồ Tát.

Cho nên Bồ Tát tu chưa chứng. Gì mà trải qua nhiều đời nhiều kiếp Bồ Tát phải tu hạnh nhẫn nhục, phải tu tùy thuận bằng lòng, phải tu Tứ Vô Lượng Tâm, đó là những cái hạnh tu của những vị Bồ Tát.

Coi như là đâu có làm sao mà những vị Bồ Tát này nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền được. Tất cả những bậc A La Hán người ta mới làm được chuyện đó, còn Bồ Tát thì chỉ nhẫn nhục mà thôi.

Cho nên cái trạng thái nhẫn nhục đó mà Thầy thường nói với các con, là trạng thái của cõi trời Đâu Suất. Cái người mà nhẫn nhục được thì cái người đó sẽ ở trong cái cõi trời Đâu Suất chớ chưa phải là ở cõi trời nào hết. Tức là cái trạng thái tâm của chúng ta là, trạng thái đó là cõi trời Đâu Suất.

Cho nên Bồ Tát tu nhiều đời nhẫn nhục, rồi bố thí, cả thậm chí như bố thí thân mạng của mình cho cọp ăn, bố thí cả vợ con, tất cả những cái đó đều bố thí, tất cả hết. Cho nên tu đó, hạnh nhẫn nhục, bố thí đó, thì làm những cái điều đó.

Cho nên cái một người cư sĩ, thường thường quý thầy họ hay nói cái vận của họ, nghe nó cũng, cái vận Đại Thừa, khi có một người cư sĩ nào đến làm công quả hoặc là cúng dường cái gì đó, thì họ kêu cái vị cư sĩ đó là Bồ Tát, coi như là sơ phát tâm Bồ Tát đó, hay hoặc là sơ địa Bồ Tát.

Cái người mà mới làm công quả chùa, cày cấy thì làm phụ, mà nấu cơm, nấu nước thì vô mà làm phụ, gọi là công quả đó, thì cái đó gọi là Bồ Tát. Hoặc là cái vị đó đem tiền bạc, cơm gạo đến cúng dường thì gọi cái vị đó là Bồ Tát. Cho nên nó có cái điều kiện họ gọi cái danh từ đó.

Cho nên ở đây chúng ta phải hiểu rằng, đứng ở trong góc độ Nguyên Thủy thì cái vị Bồ Tát đó chưa có thành tựu gì hết. Còn ở bên Đại Thừa thì vị Bồ Tát đó là một cái đẳng cấp cao, họ là cái xe lớn rồi, cho nên họ vừa chở họ, mà vừa chở bao nhiêu người ở trên đó nữa đi.

Cho nên từ đó họ chở đi luôn xuống dưới hố hết trơn hết trọi! Vì vậy bây giờ đó, chùa thì phạm giới, phá giới, thiếu đạo đức, cho nên họ chở luôn xuống dưới hố thẳm, cho nên vì vậy mà nhìn hình ảnh đó mà chúng ta đau lòng.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

763-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ.

  763-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ. Kinh sách của Tu viện Chơn Như chỉ kính biếu không bán . Phật tử cần kinh sách của Tu viện Chơn Như...