189- 2- NGŨ TRIỀN CÁI LÀ NĂM CÁI MÀN CHE
(2:54) “Ngũ
Triền Cái là năm cái màn che.”
Hồi nãy có
tham, sân, si, mạn, nghi, rồi nó có cái ái kiết sử và cái hữu tham kiết sử, còn
ở đây thì nó tham, sân, si, mạn nghi thôi.
Cái tên thì
coi như là, nó chỉ có cái tên đầu thì nó giống nhau: tham, sân, si, mạn, nghi,
còn cái tên sau cùng, thì cái kia là “kiết sử”, là trói buộc, còn cái này là
“triền cái”, là cái màn che. Cho nên Ngũ Triền Cái là năm cái màn che che đậy,
nó che đậy, nó làm cho chúng ta không có thấy.
Cho nên ở
đây, tham là lòng tham muốn của chúng ta, cái lòng tham muốn nó che đậy, nó làm
chúng ta không thấy cái đúng, cái sai, cái thiện, cái ác. Do cái chỗ đó nó mới
đem đến cho chúng ta khổ đau.
Nó che đậy
đi chớ nó không trói buộc như cái kia, còn cái kia nó trói buộc.
Như cái hữu
tham kiết sử đó, chúng ta thấy tham ở đây, nhưng mà lại có hữu tham kiết sử,
cái vật có rồi mà chúng ta bỏ không được, chúng ta bị dính mắc trói buộc, thì
cái đó là hữu tham kiết sử. Còn ở đây nó không có cái gì hết, mọi cái nó thấy,
mọi cái nó che đậy.
Thí dụ như
bây giờ, người ta nói uống rượu là sẽ ghiền, là sẽ nguy hiểm, sẽ bịnh tật,
nhưng mà cái lòng tham uống rượu đó, thì nó che đậy đi, nó không có thấy nó là
tai họa, nó không có thấy là cái sự khổ.
Thí dụ như
bây giờ một cái người tham sắc dục đi, người ta nói tham sắc dục là khổ, nó sẽ
sanh con đẻ cháu, nó sẽ đem tới cái khổ này đến cái khổ khác, rồi cơm ăn áo mặc
nó khổ.
(04:39) Thế
mà cái người tham ấy, nó che đậy cái lòng tham, nó che đậy đi, họ nghe nói khổ
vậy chớ họ không có tin, cho nên họ lấy vợ, lấy chồng rồi họ mới sanh con đẻ
cái ra. Chừng nào họ khổ thì họ mới biết khổ thôi, chớ còn họ, cái lòng tham muốn
đó họ vẫn còn, cho nên nó che đậy họ, họ thấy khổ họ chịu khổ chớ còn họ không
nghĩ gì đến để giải khổ hết.
Khổ là khổ
à, chớ họ không chấp nhận khổ à. Đó là cái lòng tham nó che đậy, chớ không phải
là trói buộc, mà nó che đậy làm cho họ không có sợ cái khổ, không có thấy cái
đó là nguy hiểm, không có thấy cái chỗ đó là khổ đau.
Ví như thấy
một chiếc xe Honda, hoặc là chiếc xe Dream, khởi tâm tham muốn, tìm mọi cách
làm để có tiền mua sắm nó, đó là cái khổ thứ nhất. Đến khi mua sắm được chiếc
xe rồi thì chạy xảy ra tai nạn, gãy chân gãy tay, đó là cái khổ thứ hai.
Cho nên hiện
giờ chúng ta thấy cái xe chúng ta ham, chúng ta không thấy những cái tai nạn,
cái khổ đó đâu. Bây giờ làm ra có tiền để sắm chiếc xe, thì chúng ta thấy nó phải
vất vả cực khổ, chớ không lé đi ăn trộm cắp người ta được. Thì nó phải có một
cái tích lũy một thời gian nó mới có được cái đồng tiền.
Rồi bắt đầu
bây giờ có xe rồi, thì không lẽ mà để xe ở trong nhà chơi sao, cho nên phải chạy,
chạy tới chạy lui. Hôm nào xe đụng, gãy tay gãy chân nằm nhà thương, bây giờ cưỡi
không được, để xe đó ngó, mà lại là khổ đau. Cho nên bây giờ mới biết, mà biết
được thì nó đã muộn rồi.
Mà khi mà
cái lòng ham đó thì nó không thấy gãy chân gãy tay đâu, mà nó thấy cái xe là
ngon, chớ nó đâu biết rằng cái tai nạn nó sẽ xảy đến cho cái lòng tham đó, cái
lòng ham muốn đó, cho nên gọi là tham triền cái.
Cái tham đó
là tham triền cái, nó che đậy, nó không thấy cái khổ đó, nó làm cho mình không
thấy. Cho nên thế mà khi lòng tham muốn người ta không thấy cái khổ, nên gọi là
tham triền cái, ngăn che không thấy cái khổ.
(06:37) “Sân
triền cái tức là lòng tức giận, ngăn che không thấy khổ.”
Do không cái
thấy cái nỗi sân của mình là khổ, vì vậy đó mình chửi mắng, mình đánh đập người
ta, mình nổi giận lên, mình rút gậy hay hoặc là rút dao mình chém người ta đi.
Thì lúc bấy
giờ đó, thì mình không thấy được cái nỗi sân khổ nơi thân của mình, mà mình chỉ
hả cái cơn sân của mình bằng cách là mình đánh trả, chửi mắng người ta lại. Do
đó nó càng lúc nó đi đến cái khổ càng khổ hơn nữa.
Thì cái sân
triền cái nó che đậy, nó không thấy ngay từ cái bắt đầu mình nổi sân đó, đó là
cái khổ rồi, nó không thấy, cho nên nó che đậy. Vì vậy nó tiến tới những cái mà
mình chửi người ta, rồi mình lấy gậy, lấy dao mình chém người ta, đó là những
cái nó đem đến những cái khổ, mà sau này đi nằm nhà thương, hoặc ở tù, nó còn
khổ dài dài hơn nữa.
“Ví dụ
khi nghe người khác mạ nhục, tức giận rút cây hoặc dao rựa đánh hoặc là chém
người ta cho hả cơn giận. Khi hết cơn giận thì khổ phải ôm lấy, như nằm nhà
thương, hoặc là ở tù.”
Đó thì, những
cái đó, nó bởi vì cái cơn sân lúc bấy giờ, hầu hết là người ta không có thấy
cái khổ, mà người ta thấy cái sân không à, chớ người ta không thấy cái khổ. Thì
cái sân đó nó che đậy, thì nó gọi là sân triền cái.
“Lòng
sân che đậy không thấy sự khổ sẽ đến với mình rẫy đầy trong cuộc sống hằng
ngày, nên gọi là sân triền cái.
Si triền
cái là cái màn che trí tuệ làm cho nó không hiểu biết Chánh Pháp, tà pháp, thiện,
ác.”
Đó, cái si
triền cái nó không phải như là cái vô minh kiết sử. Cái si triền cái đây là cái
màn che, nó che cho mình không có rõ được cái Chánh Pháp, không rõ được cái tà
pháp.
Cho nên thí
dụ như bây giờ chúng ta không rõ được Thiền Đông Độ, không rõ được Tứ Thiền của
Phật, chúng ta không rõ, Chánh Pháp cũng không rõ mà tà pháp cũng không rõ, rồi
không rõ được cái thiện, cái ác nữa.
Như hồi nào
tới giờ thì các thầy cứ nghe nói thiện ác, thì biết thiện ác như vậy. Nhưng mà
khi mà nói đến thiện thì chưa ai biết được cái tâm của chúng ta trong khi nó ở
trong cái trạng thái như thế nào đó mà gọi là tăng trưởng thiện?
Bây giờ nó
không tham, thì lòng mình không tham, thì tức là nó là thiện! Mà từ hồi tới giờ
thì mình cũng ở trong thiện đó mà mình không biết, tức là mình bị si triền cái
che đậy.
Bây giờ Thầy
mới triển khai cái si triền cái này, để mà nói ra, để phá vỡ cái màn này, thì
bây giờ mới biết thiện là ở chỗ mức độ nào. Chớ hồi nào tới giờ thiện này thì
nhiều người cũng chưa có hiểu được cái thiện của Tứ Chánh Cần đâu.
(09:23) Bởi
vì không thập ác thì nó là thập thiện chớ có gì đâu. Đó thì cái chỗ này mà nếu
không triển khai ra, thì người ta cứ ngỡ là cái thiện là ở đâu đem vào, cho nên
nó phải tăng trưởng nó, phải làm nó nhiều hơn.
Vì vậy mà
các nhà từ thiện, hay hoặc là các vị thầy nghe chữ Thiện này, thì họ mau mau là
đi gọi người cứu trợ đầu này đầu kia, cuối cùng thì cái thiện này chỉ là Tứ Vô
Lượng Tâm mà thôi, chớ không phải là cái thiện của thập thiện, thập ác.
“Ví dụ
người ta nói thiền xuất hồn, Thiền Đông Độ, Mật Tông, Tịnh Độ Tông là của đạo
Phật, chúng ta liền tin theo mà không cần suy tư, đó là si triền cái.”
Tức là chúng
ta không cần suy nghĩ coi nó có đúng hay sai như thế nào, tin theo liền!
“Mạn
triền cái là cái tánh tự kiêu, tự đại che ngăn làm cho mình không thấy cái chỗ
dở của mình.”
Nhiều khi ở
đời con người ta có cái giỏi, mà cũng có cái dở. Mà vì cái mạn triền cái nó
che, cho nên nó không thấy cái dở của mình, mà nó thấy cái hay của mình không.
Người ta nói
cái túi khôn của mình mình treo trước mặt, còn cái túi dại của mình thì treo
sau lưng đó. Mình không thấy được nó, không thấy cái dại của mình, mà cứ thấy
mình cái khôn không à.
Cho nên đời
của mình, mình dở là dở chỗ đó. Mà cái dở đó tức là bị cái mạn triền cái, cái
tánh ngã mạn, kiêu căng của mình, tự nghĩ rằng mình hơn người, giỏi hơn, cái gì
mình cũng hiểu biết hết, cho nên do đó mà mình trở thành dại.
(11:03) “Ví
dụ mình ăn uống phi thời, phá giới luật, có vợ con mà vẫn xem mình là một vị Tỳ
Kheo, một vị thầy tu, hiu hiu tự đắc lên pháp đường giảng thuyết, mà không biết
xấu hổ. Đó là bị mạn triền cái che ngăn.”
Nghĩa là một
cái việc làm đó nó không phải là cái vị trí của một người phá giới mà đi làm,
thế mà mình học, mình thuyết, mình nói hay được, là mình trèo lên đó mình ngồi
mình nói. Mình ăn uống phi thời, mình không giữ gìn giới luật của Phật, mình
trèo trên cái pháp tòa đó mình thuyết pháp mình nói.
Thì mình nói
theo cái lý của Phật pháp, kinh điển của Phật pháp mà trong khi mình làm những
cái điều mình nói không được đó, mà mình không biết xấu hổ, đó là mình bị cái mạn
triền cái ngăn che, cho nên mình không biết xấu hổ. Nếu mà cái người này họ
không có cái mạn triền cái này, thì ngay đó họ không làm cái điều này đâu.
Thầy đem những
cái ví dụ như vậy để chúng ta hiểu được cái mạn triền cái với cái mạn của kiết
sử nó không giống nhau đâu.
“Năm:
nghi triền cái là lòng nghi ngờ ngăn che không thấy sự thật.
Ví dụ
người ta nói pháp môn Tịnh Độ là mê tín, Thiền Tông là pháp môn chấp ngã, mình
không tin, nghi ngờ lời nói đó là sai, vì những pháp môn này do các Tổ truyền lại,
chỉ tin vào các Tổ mà không chịu tìm hiểu cho rõ ràng, đó là bị nghi triền cái
ngăn che.”
Nghĩa là
mình nghi cái lời người ta nói. Mình nghe người ta nói rồi, mình đừng có nghi
ngờ, mà mình nói: “Đây có lẽ là một cái sự thật, để mình tìm hiểu coi
những cái pháp môn này có đúng cái lời nói này hay không?”
Cũng như Thầy
nói, đừng có tin Thầy, mà hãy suy ngẫm, phải tìm, suy nghĩ lại coi cái lời nói
Thầy có đúng không, nếu đúng thì tin. Mà bây giờ không chịu suy nghĩ, mà cứ Thầy
nói như vậy là bài bác pháp môn của người ta chứ không phải là đúng. Cho nên đó
là cái nghi, cái nghi lời nói của Thầy nó không đúng.
Nhưng khi mà
Thầy nói ra, mình muốn cho nó rõ thấu, đừng có nghi ngờ, thì mình phải suy nghĩ
lời nói đó. (13:11) Rồi mình tìm hiểu những người tu hành theo các
pháp môn đó, họ có đạt đúng như vậy không, hay hoặc là họ đang ở trong cái chỗ
mà Thầy nói sự thật như vậy. Do đó, thì cái lòng nghi nó không bị che mờ.
Còn nếu mà
mình nghi rồi mình không chịu tìm hiểu một cái gì hết, thì cái nghi đó nó che mờ
mình, rồi mình cho rằng từ xưa đến giờ Tổ truyền lại như vậy, nhiều người truyền
lại như vậy, chắc chắc là phải đúng, còn Thầy chỉ nói như vậy là nói sai, không
đúng. Thì cái đó là cái không đúng, bởi vì Đức Phật nói: “Ta nói cũng đừng
tin ta, mà hãy suy ngẫm những điều ta nói có đúng hay không, rồi hẵng tin.”
Ở đây là cái
chỗ cuối cùng là hồi nãy phân chia ra để thấy cái nghi triền cái và cái Thất Kiết
Sử nó có những cái khác nhau như vậy đó, cái thì che ngăn, còn cái thì trói buộc.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét