Thứ Tư, 14 tháng 2, 2024

189- 2- NGŨ TRIỀN CÁI LÀ NĂM CÁI MÀN CHE

 

189- 2- NGŨ TRIỀN CÁI LÀ NĂM CÁI MÀN CHE

(2:54) “Ngũ Triền Cái là năm cái màn che.”

Hồi nãy có tham, sân, si, mạn, nghi, rồi nó có cái ái kiết sử và cái hữu tham kiết sử, còn ở đây thì nó tham, sân, si, mạn nghi thôi.

Cái tên thì coi như là, nó chỉ có cái tên đầu thì nó giống nhau: tham, sân, si, mạn, nghi, còn cái tên sau cùng, thì cái kia là “kiết sử”, là trói buộc, còn cái này là “triền cái”, là cái màn che. Cho nên Ngũ Triền Cái là năm cái màn che che đậy, nó che đậy, nó làm cho chúng ta không có thấy.

Cho nên ở đây, tham là lòng tham muốn của chúng ta, cái lòng tham muốn nó che đậy, nó làm chúng ta không thấy cái đúng, cái sai, cái thiện, cái ác. Do cái chỗ đó nó mới đem đến cho chúng ta khổ đau.

Nó che đậy đi chớ nó không trói buộc như cái kia, còn cái kia nó trói buộc.

Như cái hữu tham kiết sử đó, chúng ta thấy tham ở đây, nhưng mà lại có hữu tham kiết sử, cái vật có rồi mà chúng ta bỏ không được, chúng ta bị dính mắc trói buộc, thì cái đó là hữu tham kiết sử. Còn ở đây nó không có cái gì hết, mọi cái nó thấy, mọi cái nó che đậy.

Thí dụ như bây giờ, người ta nói uống rượu là sẽ ghiền, là sẽ nguy hiểm, sẽ bịnh tật, nhưng mà cái lòng tham uống rượu đó, thì nó che đậy đi, nó không có thấy nó là tai họa, nó không có thấy là cái sự khổ.

Thí dụ như bây giờ một cái người tham sắc dục đi, người ta nói tham sắc dục là khổ, nó sẽ sanh con đẻ cháu, nó sẽ đem tới cái khổ này đến cái khổ khác, rồi cơm ăn áo mặc nó khổ.

(04:39) Thế mà cái người tham ấy, nó che đậy cái lòng tham, nó che đậy đi, họ nghe nói khổ vậy chớ họ không có tin, cho nên họ lấy vợ, lấy chồng rồi họ mới sanh con đẻ cái ra. Chừng nào họ khổ thì họ mới biết khổ thôi, chớ còn họ, cái lòng tham muốn đó họ vẫn còn, cho nên nó che đậy họ, họ thấy khổ họ chịu khổ chớ còn họ không nghĩ gì đến để giải khổ hết.

Khổ là khổ à, chớ họ không chấp nhận khổ à. Đó là cái lòng tham nó che đậy, chớ không phải là trói buộc, mà nó che đậy làm cho họ không có sợ cái khổ, không có thấy cái đó là nguy hiểm, không có thấy cái chỗ đó là khổ đau.

Ví như thấy một chiếc xe Honda, hoặc là chiếc xe Dream, khởi tâm tham muốn, tìm mọi cách làm để có tiền mua sắm nó, đó là cái khổ thứ nhất. Đến khi mua sắm được chiếc xe rồi thì chạy xảy ra tai nạn, gãy chân gãy tay, đó là cái khổ thứ hai.

Cho nên hiện giờ chúng ta thấy cái xe chúng ta ham, chúng ta không thấy những cái tai nạn, cái khổ đó đâu. Bây giờ làm ra có tiền để sắm chiếc xe, thì chúng ta thấy nó phải vất vả cực khổ, chớ không lé đi ăn trộm cắp người ta được. Thì nó phải có một cái tích lũy một thời gian nó mới có được cái đồng tiền.

Rồi bắt đầu bây giờ có xe rồi, thì không lẽ mà để xe ở trong nhà chơi sao, cho nên phải chạy, chạy tới chạy lui. Hôm nào xe đụng, gãy tay gãy chân nằm nhà thương, bây giờ cưỡi không được, để xe đó ngó, mà lại là khổ đau. Cho nên bây giờ mới biết, mà biết được thì nó đã muộn rồi.

Mà khi mà cái lòng ham đó thì nó không thấy gãy chân gãy tay đâu, mà nó thấy cái xe là ngon, chớ nó đâu biết rằng cái tai nạn nó sẽ xảy đến cho cái lòng tham đó, cái lòng ham muốn đó, cho nên gọi là tham triền cái.

Cái tham đó là tham triền cái, nó che đậy, nó không thấy cái khổ đó, nó làm cho mình không thấy. Cho nên thế mà khi lòng tham muốn người ta không thấy cái khổ, nên gọi là tham triền cái, ngăn che không thấy cái khổ.

(06:37) “Sân triền cái tức là lòng tức giận, ngăn che không thấy khổ.”

Do không cái thấy cái nỗi sân của mình là khổ, vì vậy đó mình chửi mắng, mình đánh đập người ta, mình nổi giận lên, mình rút gậy hay hoặc là rút dao mình chém người ta đi.

Thì lúc bấy giờ đó, thì mình không thấy được cái nỗi sân khổ nơi thân của mình, mà mình chỉ hả cái cơn sân của mình bằng cách là mình đánh trả, chửi mắng người ta lại. Do đó nó càng lúc nó đi đến cái khổ càng khổ hơn nữa.

Thì cái sân triền cái nó che đậy, nó không thấy ngay từ cái bắt đầu mình nổi sân đó, đó là cái khổ rồi, nó không thấy, cho nên nó che đậy. Vì vậy nó tiến tới những cái mà mình chửi người ta, rồi mình lấy gậy, lấy dao mình chém người ta, đó là những cái nó đem đến những cái khổ, mà sau này đi nằm nhà thương, hoặc ở tù, nó còn khổ dài dài hơn nữa.

“Ví dụ khi nghe người khác mạ nhục, tức giận rút cây hoặc dao rựa đánh hoặc là chém người ta cho hả cơn giận. Khi hết cơn giận thì khổ phải ôm lấy, như nằm nhà thương, hoặc là ở tù.”

Đó thì, những cái đó, nó bởi vì cái cơn sân lúc bấy giờ, hầu hết là người ta không có thấy cái khổ, mà người ta thấy cái sân không à, chớ người ta không thấy cái khổ. Thì cái sân đó nó che đậy, thì nó gọi là sân triền cái.

“Lòng sân che đậy không thấy sự khổ sẽ đến với mình rẫy đầy trong cuộc sống hằng ngày, nên gọi là sân triền cái.

Si triền cái là cái màn che trí tuệ làm cho nó không hiểu biết Chánh Pháp, tà pháp, thiện, ác.”

Đó, cái si triền cái nó không phải như là cái vô minh kiết sử. Cái si triền cái đây là cái màn che, nó che cho mình không có rõ được cái Chánh Pháp, không rõ được cái tà pháp.

Cho nên thí dụ như bây giờ chúng ta không rõ được Thiền Đông Độ, không rõ được Tứ Thiền của Phật, chúng ta không rõ, Chánh Pháp cũng không rõ mà tà pháp cũng không rõ, rồi không rõ được cái thiện, cái ác nữa.

Như hồi nào tới giờ thì các thầy cứ nghe nói thiện ác, thì biết thiện ác như vậy. Nhưng mà khi mà nói đến thiện thì chưa ai biết được cái tâm của chúng ta trong khi nó ở trong cái trạng thái như thế nào đó mà gọi là tăng trưởng thiện?

Bây giờ nó không tham, thì lòng mình không tham, thì tức là nó là thiện! Mà từ hồi tới giờ thì mình cũng ở trong thiện đó mà mình không biết, tức là mình bị si triền cái che đậy.

Bây giờ Thầy mới triển khai cái si triền cái này, để mà nói ra, để phá vỡ cái màn này, thì bây giờ mới biết thiện là ở chỗ mức độ nào. Chớ hồi nào tới giờ thiện này thì nhiều người cũng chưa có hiểu được cái thiện của Tứ Chánh Cần đâu.

(09:23) Bởi vì không thập ác thì nó là thập thiện chớ có gì đâu. Đó thì cái chỗ này mà nếu không triển khai ra, thì người ta cứ ngỡ là cái thiện là ở đâu đem vào, cho nên nó phải tăng trưởng nó, phải làm nó nhiều hơn.

Vì vậy mà các nhà từ thiện, hay hoặc là các vị thầy nghe chữ Thiện này, thì họ mau mau là đi gọi người cứu trợ đầu này đầu kia, cuối cùng thì cái thiện này chỉ là Tứ Vô Lượng Tâm mà thôi, chớ không phải là cái thiện của thập thiện, thập ác.

“Ví dụ người ta nói thiền xuất hồn, Thiền Đông Độ, Mật Tông, Tịnh Độ Tông là của đạo Phật, chúng ta liền tin theo mà không cần suy tư, đó là si triền cái.”

Tức là chúng ta không cần suy nghĩ coi nó có đúng hay sai như thế nào, tin theo liền!

“Mạn triền cái là cái tánh tự kiêu, tự đại che ngăn làm cho mình không thấy cái chỗ dở của mình.”

Nhiều khi ở đời con người ta có cái giỏi, mà cũng có cái dở. Mà vì cái mạn triền cái nó che, cho nên nó không thấy cái dở của mình, mà nó thấy cái hay của mình không.

Người ta nói cái túi khôn của mình mình treo trước mặt, còn cái túi dại của mình thì treo sau lưng đó. Mình không thấy được nó, không thấy cái dại của mình, mà cứ thấy mình cái khôn không à.

Cho nên đời của mình, mình dở là dở chỗ đó. Mà cái dở đó tức là bị cái mạn triền cái, cái tánh ngã mạn, kiêu căng của mình, tự nghĩ rằng mình hơn người, giỏi hơn, cái gì mình cũng hiểu biết hết, cho nên do đó mà mình trở thành dại.

(11:03) “Ví dụ mình ăn uống phi thời, phá giới luật, có vợ con mà vẫn xem mình là một vị Tỳ Kheo, một vị thầy tu, hiu hiu tự đắc lên pháp đường giảng thuyết, mà không biết xấu hổ. Đó là bị mạn triền cái che ngăn.”

Nghĩa là một cái việc làm đó nó không phải là cái vị trí của một người phá giới mà đi làm, thế mà mình học, mình thuyết, mình nói hay được, là mình trèo lên đó mình ngồi mình nói. Mình ăn uống phi thời, mình không giữ gìn giới luật của Phật, mình trèo trên cái pháp tòa đó mình thuyết pháp mình nói.

Thì mình nói theo cái lý của Phật pháp, kinh điển của Phật pháp mà trong khi mình làm những cái điều mình nói không được đó, mà mình không biết xấu hổ, đó là mình bị cái mạn triền cái ngăn che, cho nên mình không biết xấu hổ. Nếu mà cái người này họ không có cái mạn triền cái này, thì ngay đó họ không làm cái điều này đâu.

Thầy đem những cái ví dụ như vậy để chúng ta hiểu được cái mạn triền cái với cái mạn của kiết sử nó không giống nhau đâu.

“Năm: nghi triền cái là lòng nghi ngờ ngăn che không thấy sự thật.

Ví dụ người ta nói pháp môn Tịnh Độ là mê tín, Thiền Tông là pháp môn chấp ngã, mình không tin, nghi ngờ lời nói đó là sai, vì những pháp môn này do các Tổ truyền lại, chỉ tin vào các Tổ mà không chịu tìm hiểu cho rõ ràng, đó là bị nghi triền cái ngăn che.”

Nghĩa là mình nghi cái lời người ta nói. Mình nghe người ta nói rồi, mình đừng có nghi ngờ, mà mình nói: “Đây có lẽ là một cái sự thật, để mình tìm hiểu coi những cái pháp môn này có đúng cái lời nói này hay không?”

Cũng như Thầy nói, đừng có tin Thầy, mà hãy suy ngẫm, phải tìm, suy nghĩ lại coi cái lời nói Thầy có đúng không, nếu đúng thì tin. Mà bây giờ không chịu suy nghĩ, mà cứ Thầy nói như vậy là bài bác pháp môn của người ta chứ không phải là đúng. Cho nên đó là cái nghi, cái nghi lời nói của Thầy nó không đúng.

Nhưng khi mà Thầy nói ra, mình muốn cho nó rõ thấu, đừng có nghi ngờ, thì mình phải suy nghĩ lời nói đó. (13:11) Rồi mình tìm hiểu những người tu hành theo các pháp môn đó, họ có đạt đúng như vậy không, hay hoặc là họ đang ở trong cái chỗ mà Thầy nói sự thật như vậy. Do đó, thì cái lòng nghi nó không bị che mờ.

Còn nếu mà mình nghi rồi mình không chịu tìm hiểu một cái gì hết, thì cái nghi đó nó che mờ mình, rồi mình cho rằng từ xưa đến giờ Tổ truyền lại như vậy, nhiều người truyền lại như vậy, chắc chắc là phải đúng, còn Thầy chỉ nói như vậy là nói sai, không đúng. Thì cái đó là cái không đúng, bởi vì Đức Phật nói: “Ta nói cũng đừng tin ta, mà hãy suy ngẫm những điều ta nói có đúng hay không, rồi hẵng tin.”

Ở đây là cái chỗ cuối cùng là hồi nãy phân chia ra để thấy cái nghi triền cái và cái Thất Kiết Sử nó có những cái khác nhau như vậy đó, cái thì che ngăn, còn cái thì trói buộc.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

763-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ.

  763-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ. Kinh sách của Tu viện Chơn Như chỉ kính biếu không bán . Phật tử cần kinh sách của Tu viện Chơn Như...