120- 4- PHÁP ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ TRONG BÀI KINH THÂN HÀNH NIỆM
(18:43) Đây
bây giờ Thầy nói về cái bài đầu tiên Thân Hành Niệm mà Đức Phật dạy là Chánh Niệm
Hơi Thở. Thầy xin đọc tiếp:
“Chánh niệm
vị ấy thở vô, chánh niệm vị ấy thở ra”. Chánh niệm tức là biết cái hơi thở,
biết cái hơi thở vô và biết cái hơi thở ra.
“Hay thở
vô dài, vị ấy biết tôi thở vô dài, hay thở ra dài, vị ấy biết tôi thở ra dài,
hay thở vô ngắn, vị ấy biết tôi thở vô ngắn, hay thở ra ngắn vị ấy biết tôi thở
ra ngắn. Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô, vị ấy tập. Cảm giác toàn
thân tôi sẽ thở ra, vị ấy tập. An tịnh thân hành tôi sẽ thở vô, vị ấy tập. An tịnh
thân hành tôi sẽ thở ra, vị ấy tập.
Trong khi
vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế
tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy nội tâm được an trú, an tọa, chuyên
nhất, định tỉnh. Như vậy, này các Thầy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo tu tập Thân Hành Niệm.
(19:58) Cái
bài pháp nó như vậy. Bây giờ Thầy sẽ giải thích cho các thầy thấy:
“Chánh niệm
vị ấy thở vô, chánh niệm vị ấy thở ra”, nghĩa là chánh niệm, tức là Đức Phật
muốn nhắc là mình phải biết, chớ chưa có nhắc gì hết. Bây giờ mình hít vô, mình
biết mình hít vô, mình thở ra, mình biết mình thở ra, gọi là chánh niệm.
Còn bây giờ
kế thì Đức Phật dạy: “Thở vô dài, vị ấy biết tôi thở vô dài. Hay thở ra dài,
vị ấy biết tôi thở ra dài”. Thì cái_“Tôi thở ra dài”_ hay là “Tôi
thở vô ngắn” hay là “Tôi thở vô dài” thì cái thở ra
thở vô, bắt đầu cái chữ chánh niệm là mình chỉ cần biết mà mình không có hướng
tâm, mình không có nhắc. Mà đến cái chỗ mà “tôi thở vô dài, tôi biết tôi thở
vô dài”, hay là “tôi thở ra dài, tôi biết tôi thở ra dài”,
thì cái đó là pháp hướng kèm theo.
Cho nên nó
thường đóng và nhấn mạnh cho chúng ta biết rằng cái chỗ đó, để mà chúng ta nhắc
cái tâm của mình kèm theo cái pháp hướng.
Cho nên ở
đây chúng ta mới thấy cái kế của Đức Phật dạy “cảm giác toàn thân tôi sẽ thở
vô”, nghĩa là mình hít vô mình nhắc, bây giờ mình không có nhớ cái thân của
mình là cảm giác như thế nào, nhưng mà nhắc cái thì mình thấy có cái cảm giác của
cái thân của mình.
Cho nên “cảm
giác toàn thân tôi sẽ thở vô, cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra”, phải
không? Mình nhắc như vậy, làm cho cái tâm mình nó chú ý vào cái cảm giác của
cái thân của mình trong lúc mình đang tu.
(21:53) Rồi
“an tịnh thân hành tôi biết tôi thở vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở
ra”. Đó thì, cái bài pháp Đức Phật bảo mình nhắc mình như vậy để cho mình
biết cái sự an tịnh.
Rồi “an
tịnh thân hành”, thì ở đây chúng ta, do cái chỗ chúng ta tu tập cái thân,
cho nên_“cảm giác toàn thân”, rồi“cảm giác an tịnh thân hành”_, thì rõ
ràng là chúng ta đang tu tập ở trong cái thân hành.
Nhưng có cái
bài pháp để sắp tới đây thì Thầy đọc tới, thì trong cái Thân Hành Niệm mà lại dạy
nó lộn nữa. Ở đây thì “an tịnh thân hành” là đúng pháp,
mà “an tịnh tâm hành” là sai. Mình đâu phải tu trên cái tâm
hành, mà mình tu ở trên thân hành! Phải không. Mà mình nhắc “an tịnh
tâm hành” là sai.
Hay hoặc “cảm
giác toàn tâm tôi thở vô, cảm giác toàn tâm tôi thở ra”, thì cái đó là, ở
đây không phải là cái Thân Hành Niệm mà cái Tâm Hành Niệm. Cho nên từng cái
pháp, ở đây thì trong cái bài Thân Hành Niệm, nó có cả cái_“cảm giác tâm hành”_
thì Thầy sẽ đọc tới.
Cho nên ở
đây, cái bài này nó rất đúng, là vì “cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra, cảm
giác toàn thân tôi sẽ thở vô”, rồi “an tịnh thân hành tôi sẽ
thở ra, an tịnh thân hành tôi sẽ thở vô.”
Ở đây mình đọc
cái bài kinh mình phải thấy rõ, khi mà nói về thân hành thì cái cảm giác này, cảm
giác của thân. Mà khi nói về tâm hành thì nó là cảm giác của tâm, hít vô, hít
ra, nó do cái cảm giác của tâm.
Đó. Thì
trong những cái, bây giờ đó, khi mà mình đã hướng tâm mình nhắc như vậy đó, thì
vị ấy phải sống như thế nào? Sống tâm không phóng dật. Chứ không phải là mình
phóng dật, mình phóng dật mà mình hướng tâm mình tu vậy không kết quả đâu.
(24:01) Cho
nên Đức Phật dạy ở trong cái bài kinh này:
Trong khi vị
ấy mà tu tập như vậy, thì cái tâm “không được phóng dật, nhiệt tâm,
tinh cần, siêng năng.” Tức là nhiệt tâm, hãy đem hết cái sức nhiệt tâm
của mình và tinh cần là siêng năng. “Các niệm và tư duy thuộc về thế tục
đoạn trừ.” Lúc mà mình tu tập cái pháp hơi thở như vậy, thì mình đoạn
trừ các cái pháp đó đi.
Thì sự thật ở
đây, nó chưa phải là trên cái pháp Vô Lậu, mà nó cũng chưa phải là trên cái Tứ
Niệm Xứ, mà nó chỉ mượn cái Thân Hành Niệm, mượn cái định Chánh Niệm Tỉnh Giác ở
trên cái hơi thở này, mà để tu tập, làm cho các ác pháp ngăn chặn không cho
sanh khởi.
Mà ác pháp
không cho sanh khởi, thì các thầy thấy cái câu chỗ này nè, thì tâm của người đó
có phóng dật không? Không có phóng dật, phải không?
Cái tâm của
người đó phải siêng năng rồi, thì những cái chuyện thế tục, những cái chuyện
ham muốn, cái chuyện danh chuyện lợi, thì có đoạn trừ không? Lúc bấy giờ mà
mình cứ giữ cái niệm hơi thở như vậy thì nó sẽ đoạn trừ tất cả những cái tâm
đó.
Và vì vậy
đó, mà mình an tọa ở trong cái chỗ tu hành của mình, mình ngồi nó rất là an ổn,
chuyên nhất và định tỉnh. Cái tâm mình nó định tỉnh ở trong cái hơi thở đó. Như
vậy là một cái vị Tỳ Kheo tu về thân.
Mà ở đây
chúng ta lấy cái bài Thân Hành Niệm này, nó không phải độc lập là cái pháp Thân
Hành Niệm, mà cái pháp này nó giúp cho chúng ta để đoạn trừ các pháp ác trong Tứ
Chánh Cần.
Bởi vì khi
mà cái tâm mình hướng ra hướng vô vậy, thì nó có một cái ý, nó có một cái gì mà
nó nảy sanh ở trong đầu chúng ta được không? Mà nó không có nảy sanh ra được
thì cái tâm có phóng dật không? Không có phóng dật nè. Phải không. Mà nó không
có phóng dật, thì các cái việc về thế tục mà nó ham muốn đó, nó có đoạn trừ
không? Nó đâu còn ở trong tâm của mình được nữa!
Cho nên nó cụ
thể rõ ràng. Và vì vậy mà ác pháp không có sanh khởi được, và thiện pháp thì
tăng trưởng. Đó. Thì ngay về cái hơi thở thì chúng ta đã tu tập được như vậy rồi.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét