Thứ Hai, 11 tháng 3, 2024

616-PHÁP TỨ NIỆM XỨ/ 2

 

616-PHÁP TỨ NIỆM XỨ/ 2

Rồi do thấy được kết quả đuổi cảm thọ đức Phật mới tác ý thêm đuổi từng tâm niệm. Đó là trên thân quán thân, trên thọ quán thọ; dùng cái thân của các con mà thấy được thân thọ do bên ngoài tác động vào thì đức Phật cũng dùng pháp tác ý để tâm không phóng dật, không dính vào các pháp. Cuối cùng đức Phật thấy rõ ràng đây là 4 Niệm Xứ mới dạy cho chúng ta.
Đức Phật từ kinh nghiệm bản thân rút ra bài 4 Niệm Xứ chứ trước kia làm gì có được. Chính đức Phật tu 49 ngày dưới cội bồ đề là tu 4 Niệm Xứ, chứ không có pháp nào nữa hết. Nói 4 Niệm Xứ là nói 4 Niệm Xứ chứ làm gì có Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền ở đây. Li dục để nó nhập vào chơn lí là tâm bất động tâm thanh thản, an lạc, vô sự chứ đâu phải là vô Sơ thiền. Khi tâm đã thanh thản, an lạc, vô sự thì nó định tỉnh nhu nhuyến dễ sử dụng, lúc bấy giờ mới nhập Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Có đúng không?
Trong bài kinh đức Phật nói vậy, tâm định tỉnh nhu nhuyến dễ sử dụng, cho nên mới nhập Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Rõ ràng đâu phải đi theo hơi thở để nhập Sơ thiền mà vì quán thân thì phải thấy hơi thở chứ.
Không tu hơi thở nhưng tâm quán trên thân thì phải thấy hơi thở.
Hồi còn nhỏ đức Phật đi theo vua cha ra đồng ruộng mới thấy con rắn bắt con nhái, con ó rình bắt con rắn và người thợ săn rình bắt con ó. Phật thấy cả một dọc con vật này ăn thịt con kia. Đó là tâm từ của đức Phật thấy con người cũng như các con vật đều xâu xé nhau. Lúc đó đức Phật mới ngồi lại li dục li ác pháp là những cảnh tượng xâu xé đó. Li ra là ngồi mà những hình ảnh xâu xé đó làm tâm đức Phật xót xa nên mới vô tình tác ý bảo tâm xót đau đó li ra. Không dè tác ý như vậy mà Phật cảm thấy tâm hết đau xót, được an tịnh. Nhờ kinh nghiệm đó mà sau khi đức Phật tu khổ hạnh đến độ cơ thể kiệt quệ rồi được phục hồi nhờ một bát sữa dê, Phật mới nhớ lại và suy nghĩ “Phải chăng li dục li ác pháp như vậy có thể được giải thoát”. Phật suy nghĩ thôi chứ chưa chắc đã được, nhưng có kinh nghiệm từ hồi bé tự tìm thấy một cách tình cờ mà được an tịnh, hết nổi đau xót trong tâm. Cho nên sau khi ăn thô thực trở lại, không tu khổ hạnh nữa, không hành hạ xác thân nữa, Phật mới ngồi xuống ở cội bồ đề và phát nguyện “Nếu ta tu pháp li dục li ác pháp này mà không chứng đạo thì ta sẽ chết tại dưới cội bồ đề này”.
Tất cả các pháp tu trong thời đó đức Phật đã tu tới mức cao nhất, tột cùng nhất, kể cả những pháp khổ hạnh Ngài cũng tu đến mức tột cùng không thể có người nào tu hơn, vậy mà Phật không chứng đạo thì còn gì nữa mà hi vọng.
Vậy chỉ còn duy nhất pháp li dục mà Ngài tình cờ kinh nghiệm được từ bé, nếu cũng không chứng đạo thì đâu còn mong gì nữa mà sống. Cho nên đức Phật ở đó tu và xác định được những kinh nghiệm hồi bé xưa giúp được tâm li dục li ác pháp đạt trạng thái thanh thản an lạc vô sự của tâm bất động.
Phải biết đức Phật tu cả 4 oai nghi chứ không phải chỉ ngồi thôi như người ta tưởng tượng sai lầm, bởi tu 4 Niệm Xứ là phải tu cả 4 oai nghi. Trong bài kinh Tiểu không, đức Phật nói rất rõ những oai nghi tu 4 Niệm Xứ. Chúng ta dựa vào đó biết rằng qua kinh nghiệm, đức Phật mới đưa ra pháp này, chứ ngoại đạo làm sao biết pháp đó để dạy cho đức Phật. Đồng thời con biết pháp 4 Niệm Xứ là pháp Ngài nhắc nhở trước khi Ngài tịch. Phật đã khẳng định nó là ngọn đuốc soi đường, là chỗ nương tựa vững chắc, nó là vị thầy của chúng ta. Phật đưa ra giới luật và giáo pháp. Giáo pháp của ta là 4 Niệm Xứ . Phật xác định 4 Niệm Xứ trong giờ cuối của Ngài, không dạy chúng ta tu pháp khác mà chỉ dạy chúng ta tu 4 Niệm Xứ. Sao trong giờ phút cuối đời đó Phật không dạy chúng ta tu Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu... mà lại dạy chúng ta tu 4 Niệm Xứ? Giới luật và 4 Niệm Xứ là hai pháp làm thầy chúng ta, là chỗ nương tựa vững chắc của chúng ta. Như vậy các con phải nhớ khi các con tu 4 Niệm Xứ đúng thì các con sẽ chứng đạo.
Vượt chướng ngại bằng pháp tác ý; Trong bài kinh Tiểu Không, đức Phật đã nói tu 4 Niệm Xứ là tu trong cả 4 oai nghi, vậy nếu chỉ ngồi liên tục sinh đau nhức là chướng ngại pháp thì làm sao. Trên 4 Niệm Xứ đâu cho có chướng ngại pháp được. Trong thời gian tu chứng đạo, để thắng vượt qua 5 ấm ma thì cũng phải dùng pháp tác ý để đuổi.
5 ấm ma là trong thân 5 ấm của chúng ta. 5 uẩn là 5 ấm ma, nó hiện ra những tưởng, những niệm, như niệm xui về tình dục, sắc dục là nữ sắc. Tượng trưng cho nữ sắc mới khởi ra những con gái ma vương tới quyến rủ Phật.
Tượng trưng cho những cảm thọ đau đớn trong thân thì nó hiện ra những ma vương đâm chém Phật... Những cái đó đều làm cho các con đau khổ cho nên đều dùng pháp tác ý đuổi đi. Đức Phật đuổi ma đi hết, cuối cùng bất động và chứng đạo. Đuổi tất cả những ấm ma bằng pháp tác ý. Trên đường đi cuối cùng khi sắp nhập Niết Bàn đức Phật bị đau đớn kịch liệt thì ngay đó Phật tỉnh thức dùng pháp tác ý đuổi bịnh, không còn đau nữa.
Chỉ dùng pháp tác ý để đuổi bịnh thôi, không dùng pháp khác. Cho nên người nào tu đã bị tưởng rồi nếu vượt qua được tưởng thì người đó chứng đạo.
Thí dụ con bị hành tưởng, nó bắt cái đầu con lúc lắc, hay bắt răng con nghiến, nó làm cho thân con động đậy, hay con bị sắc tưởng thấy hình ảnh Phật tiên đủ loại hết, còn nghe trong tai lải nhải này kia, nghe dạy pháp nữa thì đó là thanh tưởng... Tất cả những điều đó thuộc về 5 ấm ma hết. Vượt qua hết được thì chứng đạo.
Đầu tiên thì các con vượt qua dục của ý thức, sau đó vượt qua dục của tưởng thức. Tất cả đều dùng pháp tác ý mà đuổi. Không thể tác ý kiểu chung chung được mà phải đúng tên, đúng tướng trạng của nó. Như trong thân bị nhức đầu mà con bảo cái chân không nhức nữa thì đầu không hết đau được hay con tác ý kiểu chung chung bảo “Bịnh trong thân này hãy đi đi!” thì không hết bịnh đâu. Cái đầu đau thì bảo cái đầu đừng đau, chân đau thì bảo chân đừng đau, nó mới hết. Tác ý phải thẳng ngay như vậy. Bất kỳ niệm nào khởi lên cũng phải hiểu nội dung của nó mới tác ý chứ tác ý trật, nó không đi, nó cứ trở lui trở tới hoài, không chịu ra đâu. Cái niệm đó ý muốn cái gì, phải rõ rồi tác ý ngay nó, nó sẽ đi. Bởi đó là Trạch pháp giác chi; trạch là phải chọn cho đúng tên đúng tướng trạng của nó thì nó sẽ đi.
Khi ác pháp huân vô bằng ý thì đuổi nó cũng bằng ý. Kinh nói “Ý chủ, ý tạo tác. Ý dẫn đầu các pháp”. Ý dẫn vào pháp thiện thì sẽ bình an, còn ý dẫn vào ác pháp thì đem đến khổ đau cho các con. Ác pháp vô bằng ý thì cũng bằng ý đó mà đuổi ra, chứ không phải dùng pháp khác. Giữ giới luật thì nó chuyển được pháp ác ra pháp thiện, còn pháp như lí là pháp trực tiếp đẩy ác pháp ra. Hai pháp có hai tác dụng rõ ràng, cho nên người tu, thứ nhất là phải giữ giới, vì giới là thiện pháp nó mới chuyển ác pháp trong kho tàng nghiệp và muốn đẩy các ác pháp đó cho nhanh chóng hơn thì phải dùng pháp tác ý. Vì vậy trước khi chết đức Phật mới di chúc cho chúng ta “Lấy giới luật và giáo pháp ta mà làm thầy, làm chỗ nương tựa vững chắc”. Giới luật là thiện pháp thì đã biết rồi để nó chuyển ác pháp, đẩy ác pháp ra; còn giáo pháp của Phật là pháp tác ý, nó quán trên thân nó thì phải theo tác ý mà đẩy, cho nên nó trực tiếp đẩy ác pháp ra.
4 Niệm Xứ, giải thích cách khác Nhưng để khỏi lầm lạc qua Chánh Niệm Tỉnh Giác thì tỉnh giác là ở trên thân hành của nó, hơi thở hoặc bước đi, hoặc tay chân của các con đưa ra đưa vô, đó là tỉnh giác. Định Niệm Hơi Thở thì trụ trên đề mục của nó, còn 4 Niệm Xứ thì không trụ, nó cùng lúc ở trên 4 chỗ chứ không trụ trên chỗ nào hết. Cái tâm các con ở đâu thì biết ở đó mà khởi ý biết ở đó thì sai pháp 4 Niệm Xứ.
Trong một bài kinh có ví dụ tâm như con dế tìm chạy ra 6 cửa, chỉ quan sát nó chạy hướng nào thì cứ để vậy, không cản trở gì hết, chỉ biết thế thôi, nó ló đầu ra cửa nào thì biết thế thôi. Thí dụ nó ló qua tai thì tôi nghe, qua mắt thì tôi thấy, qua ý thì tôi khởi niệm nhưng tôi không dính mắc trong ý đó. Thí dụ như bây giờ tôi đang thanh thản, nó ló qua cái ý của tôi nhưng tôi đừng khởi niệm là tôi đang thanh thản; hễ tôi khởi niệm tôi đang thanh thản là tôi bị dính mắc, bị phóng dật. Ý ló ra đâu thì biết nó ló ra chỗ đó nhưng không khởi niệm, không cần nói nó ló ra chỗ nào hết, chỉ biết ý đang ở đâu thôi.
Cũng như không bắt con dế chạy ra cửa nào, chỉ thấy biết con dế đang chạy loanh quanh trong 6 lỗ cửa của nó thôi.
 Câu chuyện con dế này ở trong Thanh Tịnh Đạo trình bày như vậy là đúng, không sai. Nhưng người ta không nói rõ câu chuyện đó là pháp hành tu 4 Niệm Xứ. Câu chuyện thì rất hay nhưng người ta không biết hành động tu là thế nào. Cho nên người ta tu 4 Niệm Xứ chỉ tu toàn một cái nào đó thôi. Hoặc là họ tu thân niệm xứ thì chỉ tu một cái đó thôi, hay tu thọ niệm xứ thì chỉ tu một cái đó thôi, hay tu tâm niệm xứ thì cũng chỉ tu một cái đó. Nhưng đạo Phật đã dạy chúng ta tu 4 Niệm Xứ; pháp 4 Niệm Xứ thì phải 4 chỗ chứ sao lại cắt ngang từng chỗ. Cho nên Thầy dạy các con quán thân là trên đó có đủ 4 chỗ hết. Như vậy mới đúng là 4 Niệm Xứ.
Bài kinh hồi nãy nói con dế chạy ra 6 cửa nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý là mới nói ý chạy ra pháp thôi, là 6 căn là 6 lỗ . Nói quán pháp là nói 6 cái lỗ đó.
Ở trên 4 Niệm Xứ, 6 căn này chỉ mới một chỗ pháp, nó còn phải quán thân thọ tâm nó nữa; nhưng pháp rộng đến 6 chỗ. Nó ló ra mắt thành thấy, nó ló ra tai thành nghe,... nhưng đó chỉ mới quán pháp, chứ nó chưa quán thân, thọ, tâm.
Mặc dù mắt tai mũi lưỡi thân ý là pháp nhưng chúng ta quán thân cũng là một pháp, tâm cũng là một pháp. Cái ý là tâm đó. Nó quán niệm khi nó thấy có niệm, còn không niệm thì nó thấy tâm thanh thản an lạc vô sự của nó. Ý ló đâu thì ló, các con đừng khởi niệm thì tâm thanh thản. Cho nên nó ở trên thân thọ tâm, mà thân có cảm thọ, khi nó quán thân cảm thọ thì nó chỉ quán cảm thọ thôi là quán thọ. Thân có ba trạng thái thọ: lạc, khổ, bất lạc bất khổ.
Quán thọ là quán 3 trạng thái này.
Thanh thản thuộc về tâm, còn an lạc thuộc về thân. Sự an lạc trong 4 Niệm Xứ có trạng thái riêng của nó. An lạc không nằm ở chỗ nào trong 3 thọ thuộc thân: lạc, khổ, bất lạc bất khổ. Lạc mà làm cho các con thích thú thì bị dục, nằm trong 3 thọ dục của thân. Còn lạc 4 Niệm Xứ kh ông có thích thú.
Cho nên bữa nào tu con thấy lạc mà thích tu thì coi chừng thọ dục, còn an lạc làm cho các con có trạng thái an ổn thấy thoái mái dễ chịu mà không làm cho các con thấy có dục thì đó mới là trạng thái lạc của 4 Niệm Xứ. Lạc mà làm cho các con thích muốn tu thêm thì đó là lạc của thọ lạc của thân; thọ khổ là đau nhức; còn bất lạc bất khổ là không lạc không khổ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

763-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ.

  763-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ. Kinh sách của Tu viện Chơn Như chỉ kính biếu không bán . Phật tử cần kinh sách của Tu viện Chơn Như...