592- LỰC CỦA GIÁC CHI
(01:23:37) Tu
sinh 4: Thầy Thầy cho con hỏi.
Trưởng
lão: Rồi, con hỏi
gì?
Tu sinh
4: …(không
nghe rõ).
Trưởng
Lão: Trong cái
mà về cái Xả Giác Chi thì ở đây cái Xả Giác Chi nó mới tới cái Trạch Pháp Giác
Chi, hai cái này là cái cuối cùng.
Thì bắt đầu,
đầu tiên con thấy cái Tinh Tấn Giác Chi, ở đây mình nói cái Tinh Tấn Giác Chi
chứ sự thật ra đây là cái tinh tấn của thường chứ chưa phải là giác chi thật sự
đâu. Nhưng mà nó thực hiện ra mình biết sử dụng nó đó, cái tinh tấn này mình sử
dụng theo cái ý thức mình điều khiển, tức là điều khiển cái lực tưởng. Không có
được vượt ra ngoài cái ý thức của mình đó, thì nó còn nằm ở trong đó thì mình gọi
nó là Tinh Tấn Giác Chi.
Còn nếu nó
ngoài cái sức của mình điều khiển nó, thì nó là thuộc về tưởng chứ gì. Nhưng mà
sự thật nó hiện ra cái tướng này là cái tướng của tưởng, tức là cái tâm mình nó
chưa xả hết đâu. Khi nào mà nó xả hết thì nó mới trở thành cái lực của Tinh Tấn
Giác Chi thật sự. Nhưng mà khi xả hết, nhưng mà nó hiện ra mình biết sử dụng
nó, biết sử dụng được cái lực để cho mình thực hiện để cho cái phương pháp nó dễ
tu. Con hiểu Thầy muốn nói không?
Chứ không phải
nó là cái Tinh Tấn Giác Chi thật sự bây giờ đâu, chưa đâu. Bởi vì khi nào mà Xả
Giác Chi nó xả sạch hết rồi, nó thanh tịnh đó thì cái siêng năng này mới chính
thật sự là Tinh Tấn Giác Chi.
(01:25:12) Còn
cái xả giác chi nó chưa có hiện ra, chớ không phải là khi mình tu vậy là xả nó
có xả liền ở đó, không có đâu. Tại cái tưởng nó che chứ cái tham sân si của
mình còn. Cho nên khi mà con rời tu rồi, có ai nói chướng thì mình thấy tâm
mình cũng chướng chướng. Phải không? Như vậy nó chưa có xả đâu, thế nhưng khi
mà nó xả, kêu là nó có xả thì người ta nói không có chướng nữa.
Mặc dù nó vi
tế, nó vi tế rất vi tế. Nhưng nhiều khi cái vi tế đó nó chưa có hiện ra cái
hình, nhưng mà mình vẫn thấy nó có những cái điều kiện mà báo động cho chúng ta
biết là xả chưa hết. Là cái thân mà xả chưa hết là cái thân chúng ta có những cảm
thọ. Cảm thọ ví dụ như đau nhức hay hoặc cái này kia là nó chưa hết cái tham
sân si của chúng ta ở trong này nó chưa xả hết đâu. Nó còn đó là nó còn cái hiện
tượng cái quả của nó còn.
Còn nó hết,
thí dụ xả hết tham sân si rồi thì cái quả của nó cũng sẽ mau hết, nó xả chưa hết
thì nó gọi là… Mà còn cái quả là còn phải đau nhức, phải này kia. Nếu mà nó
không xả hết rồi thì cái trời nắng này, cái trời nắng mà hầm hầm con cũng không
thấy nắng, nó xả hết rồi.
Cho nên nó xả
luôn cả cái thời tiết, bởi vì nó thuộc về xả mà. Mà bây giờ cái Xả Giác Chi nó
chưa hiện ra được, cho nên trời hầm hầm thì mình chỉ còn ôm pháp, mà ôm pháp
mình quên nó đi, chứ nó có xả đâu. Rồi khi mà mình quên mình tưởng là nó xả ra.
Đâu phải đâu, nó có xả đâu. Mà tại nó quên. Phải không? Con hiểu chưa?
(01:26:32) Cho
nên đừng có nghĩ rằng bây giờ cái Khinh An Giác Chi nó có cái xả trong đó nó mới
khinh an, không phải! Cái khinh an là cái trạng thái Xúc Tưởng Hỷ Lạc của chúng
ta nó xuất hiện ra thôi. Nhưng mà mình biết sử dụng nó, đừng có để cho nó thoái
quá, đừng có đắm chìm nó, ham thích nó thì lại bị nó dẫn dắt. Cho nên vì vậy mà
chúng biết sử dụng nó để cho cái thân chúng ta nhẹ nhàng, nó an ổn mà chúng ta
tu tập ở trên pháp Thân Hành Niệm nó không bị mệt nhọc.
Chớ pháp
Thân Hành Niệm mà không có Tinh Tấn Giác Chi, cái Khinh an, cái Hỷ Giác Chi này
con tu rất là mệt nhọc đó, rất là cực đó.
Cho nên, đầu
tiên Thầy dạy người ta 5 hơi thở đi kinh hành 20 bước đó, người ta nói: “Pháp
gì mà cực quá!”. Bởi vì đi 20 bước cái ngồi xuống, ngồi xuống thở 5 hơi thở
chưa có được yên thân cái đứng dậy. Mới đầu ai cũng vậy, bởi vì con biết nó có
Khinh An, có Hỷ Giác Chi, Có Khinh An Giác Chi chưa mà cho nên không thấy cực,
phải không?
Còn mình bây
giờ nó có chút ít rồi mình thấy không cực, mà phải khoái quá. Thích tu, thích lắm!
Bữa đó là nó có cái này rồi cho nên nó mới thích. Còn bữa nào mà nó không có là
mấy con thấy cũng cực chứ đâu phải không, mà ráng đó chứ. Kêu là nó cũng vất vả,
nhiều khi đi sao nó mỏi chân quá trời, đó là cái khi đó nó không có. Còn nó có
thì mấy con đỡ.
Nhưng ở đây
chưa hẳn là giác chi. Nhưng mà Thầy nói nó giác chi để các con biết lấy cái ý
thức chúng ta điều khiển nó trở thành giác chi thật sự, sau khi nó Xả Giác Chi
và Trạch Pháp Giác Chi nó hiện ra đủ thì nó mới trở thành bảy giác chi thật sự
của mình. Bởi vì xả nó mới hết rồi thì tức là tất cả những cái này, cái tưởng,
cái lực của nó nó cũng bị diệt đi.
Cho nên từ
cái lực tưởng nó trở thành, Thầy nói lấy lực ma làm lực của mình mà. Các con hiểu
cái chỗ đó? Chỗ mà Thầy trả lời con hôm đó, lấy cái lực ma mà làm lực mình. Thì
bây giờ mình sử dụng nó đó là lấy lực của nó chứ không phải là lực của mình thật
sự đâu.
Cho nên sau
khi cái Xả Giác Chi với cái Trạch Pháp Giác Chi nó hiện ra rồi, thì từ cái lực
ma nó trở thành lực mình toàn bộ hết rồi. Lúc bây giờ mình mới sử dụng nó mình
nhập các định và mình thực hiện Tam Minh. Các con thấy không, mình sử dụng toàn
việc.
Bởi vì cái
tưởng nó cũng ở trong thân tâm của mình, nó là ngũ duyên của nó mà, năm cái uẩn
của nó mà. Cho nên nó hiện ra mà nó điều khiển theo kiểu của nó, mình bị lệ thuộc
vào nó, nó dang tay, mình ở trong cái dục của nó.
Cho nên, đó
cũng như là cái ý thức của mình nó có cái dục của ý thức đó, thì mình bị cái dục
nó sai cái ý thức của mình làm. Còn cái này cái tưởng, nó cũng có cái dục của
tưởng nó sai, cái tưởng nó sai nó làm theo cái dục của nó. Cho nên vì vậy nó
ngoài cái điều kiện của mình, buộc lòng mình phải có sự điều khiển của mình, tức
là có một cái Chánh Tư Duy của nó. Cái tư duy, suy nghĩ tức là cái trạch pháp.
Cho nên mình buộc nó phải theo cái trạch pháp của mình. Cho nên gọi là Chánh Tư
Duy của nó ở trên cái pháp tác ý, Như lý tác ý. Gọi là Trạch Pháp Giác Chi đó.
(01:29:17) Khi
mình trạch pháp như vậy đó, đầu tiên đó là mình trạch, chưa phải là Trạch Pháp
Giác Chi xuất hiện, mà là trạch pháp của chính mình. Con hiểu không? Bởi vì khi
đó các nhà học giả, họ dạy về Thất giác chi, đầu tiên họ dạy đó là cách thức
pháp trạch giác chi. Còn pháp xuất hiện Thất giác chi là khác. Do tu Tứ Niệm Xứ,
do tu Thân Hành Niệm mà xuất hiện Thất giác chi, chứ không phải là pháp Thất
giác chi.
Cho nên nó
xuất hiện ra mình sử dụng, chứ mình có tu nó đâu. Còn cái đầu tiên mà mình vào
mình gọi là tu Thất giác chi là cái pháp Thất giác chi, nó thuộc về Ba mươi bảy
phẩm trợ đạo, nó thuộc về pháp. Cho nên chúng ta trạch pháp, trạch cái câu này
ra, chọn lựa cái câu này, trạch là chọn lựa, chọn cái câu này ra để mà tác ý
cho nó đúng. Do đó là trạch, phải không? Đó là thuộc về Trạch Pháp Giác Chi.
Bây giờ tôi
chọn lựa cái niệm, cái niệm hơi thở hoặc là cái niệm tay tôi đưa ra, hay tôi bước
đi và tôi trạch cái niệm đó ra để làm cho tôi có chánh niệm. Con hiểu chỗ đó
không? Thì đó nó cũng thuộc về nằm ở trong cái Niệm Giác Chi. Nhưng mà cái niệm
đó nó chưa phải, mình mới trạch ra để mình chọn lấy cái niệm đó thôi, để mình
tu thôi. Thì cái này là nó thuộc về pháp Thất giác chi, chứ chưa phải là giác
chi xuất hiện.
Đó mấy con
phân biệt được vậy mấy con mới hiểu. Cho nên những nhà học giả họ…
HẾT BĂNG
BỐN THẦN TÚC - THẦN THÔNG CỦA PHẬT GIÁO
(19:03) Cái
pháp đó nó có 10 thần lực. Tức là mười công đức Như Lai, nó sẽ thực hiện Tứ Thần
Túc. Cái pháp này mà tu tập thì nó có đầy đủ 10 thần lực của nó. Đó thì, đó thí
dụ như bây giờ đó con tu trời mà nóng nực, trời nóng nực, rất là nực. Con ôm
pháp đó là con nhiếp phục được trời nóng không còn nóng, không còn nực nữa. Trời
lạnh con mặc chiếc áo mỏng như Thầy, vẫn tác ý trên pháp đó, trời không còn lạnh
nữa. Nó nhiếp phục được thời tiết, nó nhiếp phục được muỗi mòng. Trong cái Chùa
này muỗi rất nhiều, các con tu một hơi thì muỗi đi mất hết, không có muỗi vô nữa.
Cái từ trường
của các con trên cái pháp đó nó toả ra, nó làm cho những cái loài vật, nó không
có tác động vào con, nó không có cắn con. Muỗi nó cũng không có, mà những kiến,
những con vật xung quanh con nó cũng không có nữa. Mà các con tu đúng, chứ còn
tu không đúng thì cái từ trường con nó phóng ra không có, không đủ, cho nên nó
phải có. Mà cái pháp đó nó hay như vậy, nó nhiếp phục được sự sợ hãi, nó làm
cho những cái vật khác làm cho con sợ hãi. Như trời sét, trời gầm hay hoặc là
giông mưa, bão tố gì nó nhiếp phục hết. Nó làm cho con rất an ổn mà không có động
địa đến con được.
Đó thí dụ
như bây giờ đang cái cơn sóng thần đi, mà cái người ôm pháp Thân Hành Niệm là
sóng thần dừng lại đó. Cái quy luật của nó như vậy đó, mấy con thấy đó. Bởi vì
nó là Tứ Thần Túc mà, nó như thần mà, cái pháp đó nó mới thực hiện được. Bởi vì
con thấy, tác ý là cái lệnh nó rồi, nó trở thành cái lệnh của nó rồi, chứ không
phải. Cho nên Dục Như Ý Túc, con muốn cái gì là nó làm theo cái nấy.
Con có nghe
ông Châu Lợi Bàn Đặc không? Ổng thực hiện Tứ Niệm Xứ nó thanh tịnh, nó sung mãn
rồi, ổng bảo. Khi mà đức Phật mọi người đều đi thọ trai có một người mời mà.
Nhưng mà ông không có đi thọ trai, ông ở trong khu rừng có mình ông. Ổng khi mà
mọi người đi thọ trai các tu sĩ đi thọ trai hết, còn mình ông. Ông mới, ông thử
coi cái lực của mình coi có phải là Dục Như Ý Túc không, như cái ý muốn mình được
không? Ổng bảo: “Cái thân này phải biến ra 1000 thân mà ngồi khắp cái rừng
này cho ta”. Ổng chỉ ra lệnh vậy thôi. Thì ổng ra lệnh rồi, thì dưới gốc
cây nào cũng đầy ông Châu Lợi Bàn Đặc ngồi đầy hết. Tại sao ông có thần lực như
vậy mấy con? Cho nên trong lúc đó thì đức Phật đang thọ trai ở nhà của người cư
sĩ. Đức Phật biết ông Châu Lợi Bàn Đặc đã chứng đạo, mới nói, với sai cái người,
người chủ nhà đó: “Ông hãy đến cái khu rừng mà chỗ đức Phật ở đó, hãy gọi
ông Châu Lợi Bàn Đặc về thọ trai, đức Phật gọi”, hãy gọi ông về thọ trai.
Thì đức Phật
biết ông ở đây ông thị hiện thần thông cái kiểu này rồi. Thì cái ông mà cư sĩ
ông chạy đến ông đến cái khu rừng của đức Phật thì ông thấy đâu phải có mình
ông Châu Lợi Bàn Đặc, mà ngồi đầy rừng hết. Ổng không biết làm sao gọi cái ông
nào, nhiều quá, 1000 ông lận mà chứ đâu phải ít. Ổng chủ nhà đó ông mới chạy về
mới trình với đức Phật. Nói: “Con đến khu rừng đâu có ông Châu Lợi Bàn
Đặc, mà bây giờ 1000 ông, bây giờ biết kêu ông nào”. Đức Phật nói bây giờ
ông đến cái đầu cửa rừng đó, ông kêu như thế này: “Ông nào Châu Lợi Bàn
Đặc, hãy vâng lệnh Phật đi thọ trai”. Thì bao nhiêu ông Châu Lợi Bàn Đặc nó
mất hết, chỉ còn có một ông ôm bình bát, mang cái túi bát đi ra. Đó là ông Châu
Lợi Bàn Đặc đi ra thất (khất thực). Con thấy không? Đó là Dục Như Ý Túc, thần
túc mà, gọi là Thần Túc Thông đó. Thì chỉ có cái tâm chúng ta hết tham, sân, si
thôi thì nó có.
(22:18) Bây
giờ đó nhờ cái thần túc, nhờ cái định thần túc này mà chúng ta nhập các định.
Muốn nhập định nào thì chúng ta cũng ra lệnh. Mà cái pháp Như Lý Tác Ý hồi nãy
Thầy nói: “Giở gót lên, dở chân lên” là tập cái lệnh đó mấy
con. Cái lệnh đó nó trở thành lệnh đó, các con hiểu chưa?
Cho nên, tại
sao mà chúng ta tu tập lại là: “Giở gót lên, dở chân lên, đưa chân tới,
hạ chân xuống, hạ gót xuống”. Bảo đâu hành cái thân nó phải làm theo cái nấy,
các con hiểu chưa? Tại vì mình tập cái lệnh để cho nó trở thành cái lệnh Tứ Thần
Túc. Cho nên nó mới trời nắng nó nóng nực, nó nhiếp phục hết không có nóng nực.
Cái người tu không có nóng nực mà ngoài kia người ta đổ mồ hôi gần chết. Người
ta nực quá, nóng quá, nhất là miền Trung.
Thế mà cái
người mà tu pháp đó thì không còn nóng được gì hết. Thời tiết nó nhiếp phục hết,
nó thích nghi. Cái cơ thể nó thích nghi nó không còn nóng, nó mát rượi. Các con
thấy không? Đó là một cái vi diệu của Phật Pháp mà người ta không ngờ, người ta
không ngờ. Thầy biết tất cả những cái pháp đó là cái pháp vi diệu. Nhưng nói
như vậy không có nghĩa là chúng ta tham đắm cái đó đâu mấy con, chúng không ham
thần thông đâu. Thần thông có lợi ích gì? Biến ra 1000 ông Châu Lợi Bàn Đặc ngồi
trong rừng chơi chứ có lợi ích gì đâu. Hơn là bây giờ cái thân Thầy bệnh, Thầy
đuổi nó đi có lợi ích cho Thầy chớ. Cái này mới là thần thông chớ. Thân bệnh mà
đuổi đi không uống thuốc thì thần thông chứ gì, các con hiểu chưa? Phải không
các con thấy.
TAM MINH
(34:42) Vì
vậy mà trong Tứ thiền đó nó mới thực hiện được Tam Minh, tức là nó mới hướng
đưa tâm nó đi vào ba cái ba cái trí tuệ minh của nó, mới thấy được túc mạng, nó
mới thấy được thiên nhãn, nó mới thấy được lậu tận minh, chứ không khéo thì nó
làm sao nó thấy được. Nếu mình không thanh tịnh thì mình hổng làm được cái điều
này đâu.
Cho nên ngoại
đạo không làm sao có Tam Minh được, mà chỉ có Ngũ Thông mà thôi. Nếu mà ngoại đạo
có Lục Thông thì nó phải có Tam Minh, bởi vì Lục Thông thì nó có Lậu Tận Thông,
mà Lậu Tận Thông thì nó phải nằm ở trong cái Lậu Tận Minh. Còn cái Thiên Nhãn
Thông, Thiên Nhĩ Thông đều nó nằm ở trong cái Thiên Nhãn Minh hết rồi. Bởi vì
Thiên Nhãn Minh là nó không có không gian trải dài, cho nên vì vậy ở đâu nó
cũng nghe, cũng thấy được hết, vì vậy nó nằm trọn ở trong cái Thiên Nhãn Minh.
Cho nên cái
Thiên Nhĩ Thông, Thiên Nhãn Thông thì nó nằm trọn ở trong cái Thiên Nhãn Minh.
Nghĩa là trong Thiên Nhãn Minh nó đủ thứ ở trong đó chứ không phải là nó chỉ có
cái Thiên Nhãn Minh không, nó rất đủ nhưng mà cái năng lực của nó, ở trong đó
nó thông suốt hết cho nên vì vậy gọi là thông, nhãn thông hay là nhĩ thông.
Đó, mình phải
hiểu được những cái điều kiện của nó, cho nên một cái người mà thực hiện được
Tam Minh rồi, thì cái người đó lục thông họ đầy đủ, chứ không phải là đợi họ
còn tu cái gì nữa, còn cái người ngoại đạo đó họ tâm họ còn dục.
Cho nên vì vậy
mà họ sử dụng được có Ngũ thông, Ngũ thông của họ còn nằm ở trong cái Tưởng dục
của họ, nó chưa phải hết. Cho nên họ không có bao giờ họ quét sạch được cái mầm
tái sanh, họ còn tiếp tục tái sanh cho nên Lậu Tận Thông họ cũng không.
Đó, Thầy nói
như vậy để biết rằng con đường của chúng ta tu, nó phải đạt được cho đến khi mà
chúng ta đạt được Lậu Tận Thông, hoặc là Lậu Tận Minh thì chúng ta hoàn toàn chấm
dứt được cái sự tái sanh luân hồi của chúng ta, chứ không khéo nó còn cái mầm
thì nó cũng vẫn tái sanh, nó không giải thoát được đâu.
Cho nên một
vị A-la-hán người ta phải đủ Tứ thiền, Tam Minh, Lục Thông người ta đủ hết,
không có người nào mà không đủ, mới là A-la-hán. Chứ không phải A-la-hán kiểu của
Đại thừa, thì hoàn toàn là A-la-hán dỏm, A-la-hán giả, giả hiệu đó, mang cái
danh từ A-la-hán chứ sự thật là chưa phải chứng đúng được quả vị A-la-hán. Bởi
vì A-la-hán là cái người đã hoàn toàn người ta đã giải thoát, đó là cái quả vị
A-la-hán.
Nghĩa là nó
chỉ thua Phật, là vì Phật là giáo chủ, còn nó là cái người học theo cái pháp của
Phật nó thành tựu giải thoát thôi. Nó chỉ thua Phật là vì đức Phật đưa ra cái
giáo pháp, thành lập cái đạo Phật, còn nó đó, cái người mà chứng quả A-la-hán,
họ chỉ theo cái pháp đó mà họ thành tựu được cái quả giải thoát này, thì cũng
giống như Phật, nhưng mà khác xa Phật, tức là ông Phật tại vì ổng là người đưa
ra cái giáo pháp đầu tiên, còn mình chỉ tu chứng thôi, học theo cái giáo pháp
đó.
Thành ra,
cái quả vị A-la-hán với Phật nó không có sai, không có sai khác chút nào. Ông
Phật hiện thần thông gì thì nó làm cũng được, ông Phật giải thoát mức độ nào nó
cũng giải thoát, ông Phật hết tham sân si thì nó cũng hết tham sân si, nó không
còn chút nào hết, cho nên nó với Phật giống nhau.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét