423- 3- THIẾU KINH NGHIỆM TU HÀNH NÊN KHÔNG HIỂU THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN
(7:58) Các
con thấy, các nhà học giả họ không hiểu nổi, họ chỉ tưởng tượng ra mà họ, lập
luận của họ như vậy thôi, họ không hiểu.
“Bởi
vì trong Thập Nhị Nhân Duyên, duyên Danh Sắc đã có sáu căn rồi, còn lại thêm Lục
Nhập là sáu căn nữa, thì hóa ra Thập Nhị Nhân Duyên có hai lần sáu căn!
Các
nhà học giả đã không hiểu bài pháp Thập Nhị Nhân Duyên của Phật muốn nói gì, mà
dám cả gan giảng giải làm lệch ý kinh của Phật, thì bảo sao không đọa địa ngục!
Cái
sai lớn nhất của các nhà học giả trong Thập Nhị Nhân Duyên đó là duyên Sanh.”
Đó cái sai của
họ là đến cái chỗ mà duyên Sanh này, họ sai rất lớn.
“Các
nhà học giả cho duyên Sanh là sanh đẻ khiến cho bài Thập Nhị Nhân Duyên mất giá
trị, tối nghĩa. Trong các bài kinh Nguyên Thủy cũng giải thích theo kiểu này.”
Nghĩa là
trong những cái bài kinh mà ở trong kinh sách Nguyên Thủy họ cũng giải thích
sanh là sanh đẻ đó, chớ không phải là giải thích theo cái kinh nghiệm tu hành.
“Nghĩa
là các nhà học giả dựa vào những lời giải thích ở trong kinh tạng Nguyên Thủy
mà giảng nói.”
Nghĩa là họ
dựa vào cái nghĩa chữ Sanh ở trong những cái bài kinh do Phật giảng ở trong đó
mà họ nói ra.
Nhưng mà sự
thật ở đây, chắc chắn là không phải là Phật giảng những cái bài kinh này ở
trong như vậy đâu, mà chính các nhà học giả, trước kia họ đã sửa lại những cái
bài kinh đó khi họ không hiểu, họ đã sửa những cái bài kinh đó, và họ giảng
thuyết ở trong những cái bài kinh đó là Sanh là sanh đẻ. Cho nên họ thiếu kinh
nghiệm tu hành mà họ không có hiểu được cái Thập Nhị Nhân Duyên.
“Vì
các nhà học giả không có tu hành, nên không dám thoát ra nghĩa của các bài kinh
Thập Nhị Nhân Duyên.”
Nghĩa là bây
giờ cái bài kinh ở trong cái kinh Nguyên Thủy đó, nó giải thích Sanh là sanh đẻ,
thì bây giờ họ không có dám thoát ra vì họ không có tu hành, cho nên họ nghe vậy,
họ hiểu như vậy chớ họ không có dám giải thích vượt ra khỏi cái nghĩa đó.
Cái nghĩa đó
là một cái nghĩa sai mà họ cũng không dám vượt ra, họ cứ mần mò ở trong cái
nghĩa đó, rồi họ luận cái này, luận cái kia loanh quanh chớ họ không có dám giảng
đúng ra.
(10:27) “Bài
kinh Thập Nhị Nhân Duyên Đức Phật đã khẳng định gồm có con người và môi trường
sống của con người. Mười hai duyên này chỉ rất rõ, từ Vô Minh, Hành, Thức, Danh
Sắc, Thọ là chỉ cho thân Ngũ Uẩn. Vì Danh Sắc là một tên khác của sắc uẩn và tưởng
uẩn.”
Các con cứ
hiểu, người ta gọi cái Danh Sắc tức là một cái tên khác của Sắc Uẩn và Ngũ Uẩn
chớ không có gì khác hơn hết. Nếu mà một cái nhà học giả mà họ hiểu như vậy, họ
biết là Danh Sắc là một cái tên khác của cái sắc uẩn và Ngũ Uẩn thì họ không
bao giờ lầm lạc.
“Còn
các nhân duyên khác chỉ cho sự tiếp xúc và môi trường sống của thân Ngũ Uẩn.”
Nghĩa là từ
có cái thân Ngũ Uẩn này thì nó có những cái duyên để mà tiếp xúc, thì sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp là có cái duyên ra ở ngoài, các pháp ở ngoài để cho
nó mới có Xúc chạm nó mới sanh ra Thọ, mới Ái, mới ham muốn, mới giữ, mới Thủ,
mới giữ lại nó, nó mới có Sanh chớ!
Cho nên do
cái chỗ đó mà chúng ta phải hiểu, các nhà học giả thật là không hiểu mà lại giảng
Thập Nhị Nhân Duyên, thì đưa cái giáo pháp của Phật đi đến cái chỗ mê mờ mà
không có rõ ràng.
“Vì thế
Lục Nhập phải hiểu là sáu trần, sáu trần là sắc, thinh, hương vị, xúc, pháp, đó
là những pháp bên ngoài thâm nhập vào thân Ngũ Uẩn.”
Nghĩa là các
pháp đó nó ở bên ngoài cũng như sắc, thinh, hương vị, xúc, pháp, là các pháp nó
ở bên ngoài, nó thâm nhập vào cái thân Ngũ Uẩn mình, nên gọi là Lục Nhập. Đó,
thì các con thấy, ở đây Thầy xác định lại cho nó rõ ràng cái nghĩa của Lục Nhập.
“Vì thế
Lục Nhập phải hiểu là sáu trần. Sáu trần là sắc, thinh, hương vị, xúc, pháp đó
là những pháp bên ngoài thâm nhập vào thân Ngũ Uẩn nên gọi là Lục Nhập.
Sáu
cái nhập vào, khi nhập vào thì có sự va chạm, nên gây ra cảm xúc do đó mới có
duyên Xúc.”
Tức là mới
có Xúc đó.
“Nơi
duyên Xúc mới phát sanh ra Thọ. Thọ là một cảm giác, từ cảm giác dễ chịu sanh
ra Ái. Ái tức là ưa mến, yêu thích, thèm khát, ham muốn, từ đó mới sanh ra Thủ.
Thủ tức
là giữ lại cho mình làm của mình, mà đã giữ lại cho mình làm của mình nên từ đó
có Hữu. Hữu tức là có, mà Hữu đây có nghĩa là của cải, tài sản và sản nghiệp
v.v… Do có của cải, tài sản, sản nghiệp nên mới có duyên Sanh.”
Nghĩa là
mình có của cải, tài sản này kia, tất cả mọi thứ nhà cửa, rồi anh em, dòng họ,
cô bác tất cả mọi cái, nương tựa nhau mà sống ở trong cuộc sống này, có làng có
xóm này kia, nó tạo thành, nhờ cái mà chúng ta tích trữ của cải tài sản, nhờ
cái chúng ta có tình cảm đối với mọi người, cho nên có người thân, cũng có người
ghét, cũng có người vầy, người khác.
Cho nên tất
cả những cái đó nó trở thành một cái môi trường sống của chúng ta. Cho nên nó mới
có buồn, có vui, có giận, có hờn, có đau khổ, nó đủ cách ở trong đó. Do cái chỗ
đó, nó mới tạo cho chúng ta gọi là duyên Sanh. Mà Sanh ở đây tức là sanh y chớ
không phải sanh tử, chứ không phải là chết, là sanh sản.
“Của cải,
tài sản, sản nghiệp v.v… là chỗ nương tựa của cuộc sống con người. Do muốn
tích lũy của cải tài sản và sản nghiệp nên con người phải làm lụng vất vả. Khi
của cải hao mất thì ưu, bi, sầu, khổ rồi sanh ra bệnh, chết.”
Đó là một
cách rất rõ ràng và cụ thể.
(14:31) Cho
nên mười hai duyên chúng ta thấy, tới cái chỗ mà ưu, bi, sầu, khổ để chết, thì
do cái duyên Sanh mà nó ra.
Từ cái chỗ
mà chúng ta có thân, bắt đầu chúng ta có cái thân Ngũ Uẩn. Rồi từ cái thân Ngũ
Uẩn, nó mới có cái Lục Nhập nó xâm chiếm vào cái thân của chúng ta, từ đó nó mới
sanh ra Thọ, sanh ra Ái, rồi nó sanh ra, mới giữ lại những cái điều mà mình ưa
thích, mình ưa thích mình giữ lại nó mới có những cái của cải tài sản đó.
Nó có của cải
tài sản đó rồi thì nó hao mất, hay hoặc là mất đi một người nào, người thân của
mình, người mình thương, thì nó làm cho mình đau khổ, vì vậy gọi là ưu, bi, sầu,
khổ. Rồi từ cái ưu, bi, sầu, khổ nó nhiều lần như vậy nó tạo chúng ta mới bệnh,
bệnh rồi mới chết.
Đó là cái
cách thức của mười hai nhân duyên là nó như vậy.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét