284- 4- CÁCH THỨC QUÁN NGŨ TRIỀN CÁI TRÊN TỨ NIỆM XỨ
(33:16) Bây
giờ nó hỏi kế Thầy:
“Kính bạch
Thầy! Cũng giống như câu một, trong trường hợp để tu quán pháp trên pháp đối với
năm triền cái. Ví dụ hiện giờ tâm con không có ái dục thì con nên đọc: “khi có
ái dục tuệ tri nội tâm có ái dục” rồi giữ tâm trong Chánh Niệm Tỉnh Giác ấy.
Còn trường hợp tâm con có ái dục thì sau khi đọc câu “khi có ái dục tuệ tri nội
tâm có ái dục”, rồi con bắt đầu quán Định Vô Lậu. Kính xin Thầy chỉ rõ cho con
được thông suốt.”
Đây là nói về
cách thức để mà tu tập Tứ Niệm Xứ. Hồi nãy hỏi Thầy để mà biết cái cách thức tu
tập ở trên Tứ Niệm Xứ nó bao nhiêu pháp tu ở trên đó? Cho nên cái câu trả lời hồi
nãy để cho thấy nó ba cái giai đoạn mà tu tập những cái pháp như thế nào để cho
đúng ở trên cái Tứ Niệm Xứ.
Còn ở đây
thì hỏi cách thức tu Tứ Niệm Xứ đối với pháp Ngũ Triền Cái. Bởi vì lấy cái pháp
Ngũ Triền Cái mà tu tập ở trên cái Tứ Niệm Xứ này, đó cho nên bởi vậy Phật nói
“lấy pháp quán pháp”. Vậy thì cái pháp “quán pháp” như thế nào?
Cho nên tuy
rằng Thầy có giảng nhưng mà hầu hết là cái Tứ Niệm Xứ nó rất khó chớ không phải
đơn giản mà khi nói ở trên pháp quán pháp, rồi chúng ta khắc phục tham ưu, là
như vậy là được. Hay hoặc là chúng ta nói “khi có ái dục tuệ tri nội tâm có ái
dục”, như vậy, hướng tâm nhắc như vậy chưa phải đúng cách đâu. Cho nên ở đây
thì Thầy sẽ dạy để thấy cho rõ.
(35:06) Đáp: “Khi
đặt pháp Ngũ Triền Cái…”
Đây pháp Ngũ
Triền Cái tức là tham, sân, si, mạn, nghi đó, các thầy hiểu, lấy cái pháp đó để
mà quán cái pháp. Đó thì thì khi đặt cái pháp Ngũ Triền Cái, bởi vì đây là cái
pháp Ngũ Triền Cái, các thầy hiểu, nó là tham, sân, si, mạn, nghi, thì ở trong
thân này nó có những pháp tham, sân, si, mạn, nghi.
Cho nên bây
giờ Phật dạy cái pháp Ngũ Triền Cái, chúng ta mới đem đặt nó lên trên cái thân,
thọ, tâm, pháp của chúng ta, bốn chỗ này, để mà chúng ta quán cái pháp Ngũ Triền
Cái này trên cái thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta, tức là trên cái pháp của
nó.
“Khi đặt
pháp Ngũ Triền Cái trên Tứ Niệm Xứ”
Tức là trên
thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta đó, nghĩa là chúng ta lấy cái pháp Ngũ Triền
Cái đặt lên trên. Chứ đừng nghĩ rằng chúng ta quán pháp trên pháp rồi cứ quán
Ngũ Triền Cái không thì nó vô nghĩa lắm. Cho nên phải đặt nó lên trên Tứ Niệm Xứ,
vì Tứ Niệm Xứ là bốn cái chỗ chúng ta đặt pháp trên đó mà chúng ta quán.
“Khi đặt
pháp Ngũ Triền Cái trên Tứ Niệm Xứ, quán pháp Ngũ Triền Cái trên pháp Tứ Niệm Xứ.”
Các thầy hiểu
chưa? Đó nghe lại cái câu này, nghe vậy chớ nhiều khi chúng ta chẳng biết, bởi
vì pháp này với pháp kia nó chồng lên nhau đó, chưa có biết cái nào mà chúng ta
quán cái nào.
Cho
nên: “Khi đặt pháp Ngũ Triền Cái trên Tứ Niệm Xứ”, tức là
trên cái pháp Tứ Niệm Xứ, mà cái pháp Tứ Niệm Xứ là thân, thọ, tâm, pháp của
chúng ta nè, còn cái pháp Ngũ Triền Cái là tham, sân, si chớ không phải, bây giờ
cái thân của chúng ta không tham, không sân, không si thì có cái pháp tham,
sân, si ở ngoài rõ ràng.
Mà bây giờ,
bởi vì cái thân của chúng ta nè, thân thọ tâm pháp của chúng ta có tham sân si,
cho nên nó, đặt cái pháp tham sân si lên, thì chúng ta thấy ở trong thân chúng
ta có tham sân si rồi, thì tức là chúng ta quán ở trên cái thân tham sân si
chúng ta, chớ không phải quán pháp Ngũ Triền Cái.
Đó các thầy
hiểu, bởi vì Thầy sợ các thầy hiểu lầm lạc cái chỗ này nè. Bây giờ cái pháp Ngũ
Triền Cái, nó là cái vật gì ở bên ngoài, nó tham sân si là vật gì ở bên ngoài
chớ không phải thân ta.
Bây giờ thí
dụ như thân của Thầy là ông Phật nè, không có tham sân si nè. Bây giờ Thầy mới
đặt cái pháp Ngũ Triền Cái lên trên cái thân, thì đặt lên trên cái thân thanh tịnh
này, thì rõ ràng là cái pháp này là pháp tham sân si, nhưng mà nó không có tham
sân si trên này, cho nên đặt nó lên trên này, thấy rõ ràng cái thân thọ tâm
pháp này nó không có tham sân si, thì cái pháp này đem quăng ra ngoài chớ không
có quán. Các thầy hiểu chưa? Bởi vì nó ở trong này, nó đâu có tham sân si đâu
mà quán!
Còn bây giờ
lấy cái pháp này mà để lên trên cái thân Tứ Niệm Xứ này, mà thấy rõ ràng thân Tứ
Niệm Xứ này nó có tham sân si nè, cho nên vì vậy bây giờ mới quán, mới quét sạch
cái tham sân si ở trong cái Tứ Niệm Xứ. Các thầy hiểu chớ?
Đó, nó rõ
ràng như vậy, cho nên chúng ta mới khắc phục được mình. Chớ còn không khéo mà dạy
Tứ Niệm Xứ thì coi như chúng ta lấy cái pháp Tứ Niệm Xứ mà quán pháp Tứ Niệm Xứ
thì chẳng biết gì hết.
“Khi đặt
pháp Ngũ Triền Cái trên pháp Tứ Niệm Xứ, rồi quán pháp Ngũ Triền Cái trên pháp
Tứ Niệm Xứ.”
Phải không?
Các thầy nghe rõ chưa?
(38:07) “Ví
dụ, hiện tại tâm con không có ái dục con nên đọc câu:”
Nếu bây giờ
tâm mình không có ái dục nè.
“ Khi
tâm không có ái dục tuệ tri nội tâm không có ái dục.”
Nghĩa là
mình biết tâm mình không có ái dục.
“… rồi
con giữ tâm trong Chánh Niệm Tỉnh Giác.”
Nghĩa là cái
niệm mà không ái dục cho nên con giữ nó lặng lẽ, thanh thản, an lạc.
Thì bây giờ
như ông Phật, cái tâm ông vậy, ông đem cái pháp tham sân si ông đặt lên, mà ông
thấy ông không có gì hết, thì tức là ổng nói, tâm tui không có ái dục, không có
sân nè, không có ham muốn, không có giận hờn, không có si mê gì hết, bây giờ
tui giữ cái tâm Chánh Niệm Tỉnh Giác thì ngay đó, ngay cái tâm mà không tham,
sân, si thì nó đã ở trong Chánh Niệm Tỉnh Giác rồi.
Cho nên bây
giờ đó, mình nhắc lại cái tâm, rồi mình quán sát, bởi vì mình quán, tức là quan
sát lại nó, mình thấy cái thân thọ tâm pháp - cái pháp Tứ Niệm Xứ này, nó không
có cái gì ái dục hết, nó không có lòng ham muốn hay sân hận gì hết, cho nên
mình thấy rõ ràng, vì vậy là mình giữ cái Chánh Niệm Tỉnh Giác đó mà thôi.
“Nếu sức
con giữ được năm phút”
Đây bắt đầu
các con thấy này, cái sự kéo dài ra mà. Còn nếu mà như ông Phật thì ngày này
qua ngày khác thì ổng ở trong Chánh Niệm Tỉnh Giác thanh tịnh đó, ông đâu có
tham, sân, si nữa đâu, cho nên ông ở từ năm này đến năm khác ông cũng đâu có
tham, sân, si. Còn mình thì chưa được đâu.
Cho nên vì vậy
nếu cái sức mình nó có thể giữ được trong năm phút:
“…
thì con nên đọc câu đó một lần nữa.”
Nghĩa là năm
phút mình lại đọc cái câu đó, mình đọc cái câu “Tâm tôi không có ái dục tuệ
tri nội tâm tôi không có ái dục”.
“Rồi
con lại giữ trong Chánh Niệm Tỉnh Giác cái tâm không ái dục đó, cái thân không
ái dục đó.
Nếu mà
con đặt trên thân con thì con giữ cái thân, mà con đặt ở trên thọ thì con giữ
cái thọ, mà con đặt ở trên tâm thì con giữ cái tâm, mà con đặt ở trên cái pháp,
cái pháp là cái thân của con là một pháp, thì con lại cũng giữ nó, cái trạng
thái Chánh Niệm Tỉnh Giác đó.
Cho
nên nó kéo dài từ năm phút, rồi sau năm phút đó con lại nhắc nó một lần nữa. Và
vì vậy mà con kéo dài cái trạng thái Chánh Niệm Tỉnh Thức đó cho đến suốt ba
mươi phút hay là một giờ, thì nó đúng cái giờ, mà hết cái giờ con tu thì con xả,
con nghỉ.”
Đó các con
hiểu chưa?
Cách thức để
cho mình ở trên cái pháp Ngũ Triền Cái mà mình tu cái thân, thọ, tâm, pháp của
mình, để làm cho nó được Chánh Niệm Tỉnh Giác, nó không có bị tham, sân, si, mạn,
nghi nữa.
(40:30) “Trường
hợp thứ hai, tâm con có ái dục, sau khi đọc xong câu: “Khi tâm có ái dục tuệ
tri nội tâm có ái dục”,…”
Nghĩa là bây
giờ tâm mình có ái dục nè, nó khởi lên cái lòng ái của mình nè, thì mình biết
nó có ái dục,
“… rồi
bắt đầu con quán Định Vô Lậu.”
Tức là bây
giờ mình quán sát lại cái tâm dục của mình, nó ái dục cái gì? Nó ái dục về cái
ăn, nó ái dục về cái sắc dục, nó ái dục về cái tình cha con, hoặc là nó ái dục
về cái tình gia đình hay của cải tài sản? Nó còn mến tiếc những cái vật gì nó
sanh ra?
Thì mình đặt
cái niệm đó ra, mình mới dùng cái Định Vô Lậu đó, mình mới quán xét nó. Từng đó
mình quán xét xong rồi cái mình xả được cái tâm đó, do đó cái tâm ái dục nó hết
đi.
Mà nó hết đi
thì bắt đầu bấy giờ cái tâm của mình nó còn ở chỗ nào? Lúc bấy giờ nó xả được rồi
thì cái tâm nó luôn luôn nó ở trong Chánh Niệm Tỉnh Giác, chớ nó không còn ở
trong cái ái dục nữa. Đó, cách thức là mình tu như vậy.
Bây giờ nó
có ái dục mình mới quán nó, quán nó mình biết rõ rồi, bây giờ đem cái pháp Ngũ
Triền Cái mình mới đặt trên cái thân của mình, mình mới quán cái thân của mình
xem coi nó có bị Ngũ Triền Cái không?
Bây giờ nó bị
nè, nó có ái dục nè, mình biết rõ ràng cái thân đang bị ái dục nè. Do đó, khi
mà nó bị ái dục rồi thì bắt đầu mình mới đưa cái Định Vô Lậu vô, mình quán xét
về cái tâm ái dục đó nó thuộc về cái đối tượng nào? Do đó mình mới quét sạch
cái ái dục đó ra rồi, thì bắt đầu cái tâm nó trở về cái thanh thản, nó trở về sự
Chánh Niệm Tỉnh Giác nó, thì mình giữ trong cái trạng thái Chánh Niệm Tỉnh Giác
đó.
Mà nó chưa xả
được thì mình dùng Định Vô Lậu quán xét nữa để mà xả, hoặc là dùng pháp hướng
đuổi đi, thì có như vậy thì nó sẽ đuổi đi được cái tâm ái dục của mình.
(42:23) “Nếu
tâm con còn ái dục thì con lại nhắc một lần nữa, rồi bắt đầu quán Định Vô Lậu để
xả sạch tâm ái dục.”
Mà nếu nó
còn nữa thì mình cứ dùng cái pháp hướng mà mình phá nó. Bởi vì mình đã quán nó
quá rồi, nhưng mà nó không chịu đi, thì mình phải dùng cái pháp hướng mà nhắc,
để mình xả nó cho được.
“Nếu
tâm con đã xả được tâm ái dục thì con nên tu theo trường hợp thứ nhất - tâm con
không ái dục. Khi tu tập xong hết giờ xả nghỉ. Nếu mà trường hợp thứ nhất mà
tâm nó chưa hết thì con tu theo trường hợp thứ hai.
Mà nếu
tâm con chưa hết, trường hợp thứ hai, quán một lần thứ hai nó chưa hết, thì sau
đó con chỉ dùng pháp hướng mà đập nó xuống mà thôi. Rồi từng đó nó sẽ hết. Khi
tu tập xong, hết giờ xả nghỉ, đến giờ khác mà còn nữa là cứ quyết định tu tập
mãi cho chừng nào hết mới xong.”

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét