194- 7- THIỆN ÁC TRONG TỨ VÔ LƯỢNG TÂM VÀ THIỆN ÁC TRONG TỨ CHÁNH CẦN
(22:24) Hỏi: “Kính
bạch Thầy! Người có tâm bất động là người giữ gìn các niệm thiện trong tâm của
mình và ngăn chặn đoạn dứt ác pháp, các ác pháp không cho sanh khởi trong tâm.
Có phải vậy không thưa Thầy?”
Đáp: “Đúng vậy! Nhưng ở đây
con phải hiểu, phân biệt niệm thiện, niệm ác của Thiền Đông Độ không giống pháp
ác, pháp thiện của Tứ Chánh Cần.”
Vì câu hỏi
này, rồi hồi nãy cô Út hỏi Thầy hôm qua hôm kia Thầy có chưa trả lời, hôm nay
thì Chân Thành hỏi Thầy, thì nhân cái chỗ này Thầy cũng trả lời luôn để mà thấy
cho rõ.
“Đúng
vậy! Nhưng ở đây con phải hiểu biết phân biệt niệm thiện, niệm ác của Thiền
Đông Độ, nó không giống pháp ác, pháp thiện của Tứ Chánh Cần.”
Ở đây tại
sao Thầy không có dùng cái niệm ác, niệm thiện như là Thiền Đông Độ mà Thầy
dùng pháp ác, pháp thiện? Pháp ác, pháp thiện mới đúng, chớ còn mà dùng cái niệm
thiện, niệm ác ở đây là tự niệm của mình nó khởi lên, còn cái này, pháp thiện,
pháp ác là tự bên ngoài.
Bây giờ tâm
tham có cái đối tượng mình mới tham, không có đối tượng làm sao tham? Có sân,
có cái sự gì nó mới sân, nó có cái pháp nó làm cho mình sân, cho nên pháp thiện
và pháp ác.
“Niệm
thiện của Thiền Đông Độ là niệm thiện của Tứ Vô Lượng Tâm.”
Các con hiểu,
chớ nó không phải là niệm thiện của thập thiện đâu.
“Niệm
thiện của Thiền Đông Độ là niệm thiện của Tứ Vô Lượng Tâm.”
Nghĩa là khởi
lên nghĩ một cái niệm đó, niệm thiện đó đó, là phải giúp người này, hay làm gì
người này người nọ kia, chớ nó không có nghĩ là cái niệm thiện là cái chỗ mà
không niệm của chúng ta đâu. Nghĩa là chúng ta không tham, không sân si thì nó
là thiện. Bây giờ tâm mình nó không tham, không sân si thì nó là thiện, còn nó
có tham, có sân si là ác.
(24:06) Bây
giờ nó không tham không sân si, thì đối với cái Thiền Đông Độ nó không tham,
không sân si, nó ngồi yên lặng như vậy, nó không niệm gì hết, thì nó cho là Phật
Tánh, cái bản thể của nó, nó khác. Còn mình thì không phải, mình cho nó là thiện
chớ không phải Phật Tánh.
Cho nên ở
đây Tứ Chánh Cần cho cái trạng thái đó là trạng thái thiện, Thập Thiện, nó
không có cái niệm ác ở trong đó, tức là nó thiện. Còn ở bên đó nó không phải
cho cái đó đâu.
Cho nên ở
đây chúng ta phải hiểu, cái thiện của Thiền Đông Độ là cái thiện của Tứ Vô Lượng
Tâm. Bắt đầu bây giờ mình ngồi mình khởi nghĩ, ở bây giờ mình phải đem cái này
mình giúp người kia, mình giúp người nọ đó là thiện, cho nên cái niệm đó phải dừng.
Chớ còn cái
thiện của chúng ta, thì cái mà không niệm của chúng ta là cái thiện, còn cái của
họ, là cái không có niệm đó, thì cái đó là cái bản thể của họ, cái Phật Tánh của
họ. Nó khác rồi, hai cái nó đều khác nhau.
Vì vậy mà
cái chỗ hiểu của họ đó là phải hiểu cái thiện của họ là Tứ Vô Lượng Tâm. Còn niệm
ác của Thiền Đông Độ là phải nói là thập ác, cũng có tham, sân, si trong đó nó
mới có ác, chớ còn nếu không có thì làm sao nó ác được?
“Còn
chỗ không niệm thiện, niệm ác là Phật Tánh của họ.”
Tức là chỗ
mà không niệm thiện niệm ác đó, tức là “chẳng niệm thiện niệm ác, bản
lai diện mục hiện tiền”đó, đó là cái câu nói của Lục Tổ Huệ Năng, thì đó là
chỗ mà không niệm thiện, niệm ác, tức là không có niệm Tứ Vô Lượng Tâm đó. Và
không có cái niệm ác, là thập ác của chúng ta đó, thì nó chỉ gồm có hai cái đó.
Cho nên hầu
hết là người ta chỉ nghĩ cái niệm thiện như là Thiền Đông Độ chớ không phải là
niệm thiện như Thầy đã giảng rồi.
Bởi vì cái
niệm thiện của Thầy giảng trong Tứ Chánh Cần, thì bên đây ác, thì bên đây thiện.
Mà cái ác không có thì cái thiện chớ không có cái gì khác hơn, nó thấy nó rõ
hơn.
Còn cái kia
chúng ta thêm nó vào, đem ở ngoài nó vào, nghĩ ngợi nó ngoài vào, cho nên Thiền
Đông Độ, nó bắt buộc nó phải dừng cái đó, cái niệm đó.
(25:58) “Ngược
lại pháp thiện của Tứ Chánh Cần là không pháp, còn pháp thì rơi vào Ngũ Triền
Cái.”
Nghĩa là
trong pháp Tứ Chánh Cần, nó là không pháp, nó không có cái pháp nào hết, “ngược
lại thì pháp thiện của Tứ Chánh Cần là không pháp.”
Nó không có
cái pháp, nghĩa là mình ngồi đây mà không có cái pháp nào hết, tức là nó không
có cái pháp ác ở trong đó, thì nó là pháp thiện, phải không.
“Còn hễ
mà còn có pháp thì nó rơi vào Ngũ Triền Cái và Thất Kiết Sử.” Khi mà nó khởi ra một cái niệm,
thì tức là nó sẽ rớt vào cái Ngũ Triền Cái và Thất Kiết Sử, nó thuộc về lậu hoặc,
nó ác pháp.
“Pháp
thiện trong Tứ Chánh Cần là một trạng thái tâm ly dục, ly ác pháp.”
Đó các con
nhớ nè. Bởi vì ở đây Thầy giải thích cái chỗ này thêm để thấy rõ nè. Pháp Thiện
trong Tứ Chánh Cần, bắt đầu bây giờ Thầy nói lại để cho nghe nè:
“Ngược
lại, pháp Thiện của Tứ Chánh Cần là không pháp,”
Nó không có
cái pháp nào trong đó hết, còn hễ nó có là tức là pháp ác, mà nó không có là tức
là pháp thiện. Hễ còn có cái pháp thì tức là ngay đó chúng ta rơi vào cái Ngũ
Triền Cái và Thất Kiết Sử. Mà Ngũ Triền Cái, Thất Kiết Sử thì nó thuộc về lậu
hoặc rồi, nó là thuộc về pháp ác.
“Pháp
Thiện trong Tứ Chánh Cần là một trạng thái tâm,”
Nghĩa là lúc
bấy giờ, cái tâm của chúng ta nó phải ở trong cái chỗ vô lậu hoặc mà, cho nên gọi
là ly dục ly ác pháp, có Tầm có Tứ. Tức là nó còn có cái sự suy nghĩ mà, nó còn
có sự suy nghĩ chớ nó đâu phải mất, nó còn sự tư duy mà, nó còn có sự tác ý ra
được mà, cho nên nó có Tầm có Tứ.
“Còn
Thiền Đông Độ, chỗ “chẳng niệm thiện, niệm ác” là chỗ ức chế tâm không vọng tưởng
xen vào nên không Tầm Không Tứ.”
Nó hoàn toàn
nó không Tầm không Tứ. Còn cái này nó có Tầm có Tứ mà.
“Để
phân biệt rõ ràng con nên tư duy quán xét để không lầm lộn với Thiền Đông Độ.”
Ở đây thì
chúng ta quán xét cho kỹ cái chỗ này thì chúng ta không có lầm lộn với Thiền
Đông Độ.
Như hồi nãy
Thầy đã nói rồi, đó là những điều mà cần phải hiểu. Khi dạy Tứ Chánh Cần, Thầy
cũng không có lưu ý cái phần này, nhưng mà vì thứ nhứt là Cô Út vừa hỏi bữa đó
thì Thầy chưa có kịp trả lời, bữa nay thì Chân Thành hỏi, thì nó cũng nhằm cái
chỗ để mà trả lời để cho chúng ta thấy được cái thiện và cái ác của Tứ Chánh Cần,
và cái thiện và cái ác của Thiền Đông Độ.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét