Thứ Tư, 14 tháng 2, 2024

186- 8- THẤT KIẾT SỬ LÀ BẢY PHÁP TRÓI BUỘC CON NGƯỜI

 

186- 8- THẤT KIẾT SỬ LÀ BẢY PHÁP TRÓI BUỘC CON NGƯỜI

(40:09) Hỏi: “Kính bạch Thầy! Các cụm từ mà Đức Phật đã đặt ra Thất Kiết Sử, Ngũ Triền Cái, Thánh phòng hộ sáu căn, xin Thầy giải thích cho con được hiểu?”

Đó, những cái cụm từ này, nhiều khi các con cũng có nghe nói Thất Kiết Sử nè, Ngũ Triền Cái nè mà không biết sao nó cũng có tham, sân, si gì tùm lum ở trỏng, không biết nó giống nhau khác nhau chỗ nào? Bây giờ thầy Chân Thành hỏi, thì một người hỏi, Thầy trả lời bao nhiêu người sẽ hiểu.

Đáp: “Thất Kiết Sử là bảy cái pháp trói buộc con người, khiến cho đau khổ. Bảy pháp đó gồm:”

Bảy pháp đó gồm có đó, nó gồm có cái gì đây?

“Một là ái kiết sử.”

Thứ nhất là ái kiết sử.

“Ái kiết sử có nghĩa là lòng thương yêu, ưa mến, thích thú của mình, nó đã trói buộc mình, làm cho mình đau khổ.”

Nghĩa cái lòng thương yêu của mình đối với một cái đối tượng nào đó, một cái vật gì đó, đối với cha mẹ anh em, đều nó thuộc về ái kiết sử. Cho nên cái lòng thương yêu đó nó trói buộc mình, nó làm cho mình đau khổ.

Hoặc là mình ưa thích một cái vật gì đó, thì cái đó cũng thuộc về ái kiết sử, cho nên nó trói buộc mình dữ lắm. Bây giờ thí dụ như mình ưa thích cái nhà, thì chính cái nhà đó là cái ái kiết sử, cho nên nó trói buộc mình, làm cho mình ưa thích nó, vì vậy mà mình chịu đau khổ đủ cách, đó là ái kiết sử.

“Sân kiết sử là lòng sân, buồn, tức, giận, dữ của mình đã trói buộc mình, làm cho mình buồn khổ.”

Nghĩa là nó kéo cho mình triền miên, nó luôn luôn nó miên mật ở trong cái lòng của mình, nó làm cho mình cứ giận, nó kéo dài hoài hoài, cho nên nó trói buộc mình, nó làm cho mình không có bao giờ nguôi cái lòng sân đó được, lòng giận hờn đó được. Đó là cái sân kiết sử, nó trói buộc mình, nó làm cho mình kéo dài hoài, nó buộc mình hoài.

(41:58) “Ba: kiến kiết sử. Kiến kiết sử là sự cố chấp hiểu biết của mình, cho là đúng, còn tất cả sự hiểu biết của người khác cho là sai. Vì thế nó tự trói buộc lại mình, làm khổ mình, ai nói gì mình cũng chẳng nghe.”

Thí dụ như bây giờ mình nói như thế này, tôi thì tuổi trẻ, còn nhỏ chưa biết đời, cho nên phải hiểu đời rồi tu mới dễ xả bỏ, còn bây giờ chưa biết đời mà xả bỏ, tôi chưa có biết gì hết, tôi xả bỏ khó lắm. Do đó cái ý kiến, cái kiến chấp của mình là vậy.

Nhưng mà người ta nói đời là khổ, đừng có nhiễm nó, nhiễm nó là xả không có được, nhưng mà mình cứ mình chấp, mình chấp là có cái ý của mình như vậy, là mình phải hiểu đời mình mới xả được, còn mình chưa hiểu. Do cái chỗ kiến chấp đó thì nó là kiến kiết sử, nó trói buộc mình hoài, nó làm cho mình không có chấp cái lời nói của cái người có kinh nghiệm đi qua.

Vì vậy mình bị trói buộc ở trong đó, cho nên mình cứ ray rứt, mình khổ đau, mình phải như thế nào, thế nào, nó làm cho mình phải tìm hiểu chớ còn không hiểu thì mình…​ Nhưng mà khi mà đã hiểu rồi, thì tới chừng đó thì lời của những người mà người ta, những cái hiểu biết của người ta, tức là kiến là cái hiểu biết của người ta, người ta nói quá đúng rồi, bây giờ mình có rồi mình không xả được rồi!

Trời ơi! Bây giờ có vợ, có con một bè rồi làm sao bây giờ mình xả đây? Trời ơi mình bỏ nó đâu có được, cho nên vì vậy mà bây giờ mình dở chết dở sống. Hồi đó không có thì khoẻ quá, mà bây giờ có thì khổ quá. Đó cho nên kiến kiết sử là nó trói buộc mình rất chặt.

“Nghi kiết sử là lòng nghi ngờ, tự trói buộc mình, làm khổ mình, mà chẳng bao giờ chịu rời bỏ.”

Nghĩa là cái lòng nghi của mình, mình nghi cái gì đó, mình không có chịu bỏ cái lòng nghi đó, cho nên do cái chỗ đó mình sẽ mất đi cái nghị lực, mình mất hết cái nghị lực của mình. Mình nghi cái chỗ đó. Thí dụ bây giờ mình nghi cái pháp đó tu không được, thì mình hết có muốn tu nổi rồi.
“Một người học trò mà nghi thầy dạy mình là tu chưa tới nơi, lòng nghi này làm cho mình không còn tu tập được nữa. (44:06) Như nghi đức Phật là không đúng, hay đạo Phật không đúng, thì không còn theo đạo Phật tu nữa.”

Đó là cái nghi mà nó sẽ mất đi cái chỗ tu tập của mình. Cho nên cái nghi kiết sử này nó trói buộc, nó làm cho mình không có xả ra được, nó trói buộc mình. Do đó, từ đó cái người học trò mà xa thầy, họ nghi ông thầy bằng cách này cách khác, mà họ không có tự tìm hiểu cho nó rõ ràng.

Do đó họ bị cái nghi đó mà họ không còn tu tập được với pháp của một vị thầy nữa. Cũng như mình nghi Phật, thì tức là mình không thể nào mình theo đạo Phật được. Đó là cái nghi nó trói buộc mình, từ đó mình bị trói buộc mà mình không có tự sáng suốt lấy ra.

Bởi vậy Đức Phật dạy, cũng như Thầy dạy, cái gì Thầy nói thì đừng có tin Thầy mà hãy suy ngẫm, suy ngẫm rồi thấy đúng mới tin. Như vậy nó có còn nghi không? Nó không còn nghi.

Còn bây giờ Thầy nói thì không chịu nghe, không có chịu nghe cái lời giảng dạy của Thầy, do đó không chịu suy ngẫm có đúng hay không, cho nên vì vậy đó mà mình đâm ra mình nghi Thầy bằng cách này, cách khác, từ đó mình không còn tu tập nữa.

“Năm: mạn kiết sử, là lòng ngã mạn, kiêu căng, tự đắc, tự trói buộc mình, lúc nào cũng tự xem mình là trên hết. Do lòng hiu hiu tự đắc này đã làm khổ mình,”

Tức là đã trói buộc đó, đã làm mình rất khổ mà mình không có hay biết gì, mình tưởng mình ngon, tưởng mình hay đó, cho nên mình cứ tự coi như là mình ngon nhất đó. Thì do đó nó tự làm cho mình trói buộc mình mà mình không có chịu bỏ cái chỗ đó.

Cho nên hầu như người ta có một chút ít học thức nào đó, bỗng dưng người ta có cái mạn kiết sử liền tức khắc, nó trói buộc họ, họ coi cái chỗ học của họ là hơn hết, cho nên họ bị cái ngã mạn, cái mạn đó.

“Sáu là hữu tham kiết sử.”

Hữu tham kiết sử là những cái vật mình có sẵn rồi, như bây giờ mình có cái nhà, cái đồng hồ, cái bàn, ghế, cái này kia, những cái vật mình có sẵn rồi, mà bây giờ những cái vật này nó mất đi, mình buồn nè, mất đi mình tiếc nè, ai làm hư thì mình giận, mình chửi người ta nè. Thì đó gọi là hữu tham kiết sử, nó làm cho mình buông xả không được, tức là mình bị trói buộc.

Cũng như cái nhà mình bây giờ có người nào lại họ lấy đi, hay hoặc cái bàn này họ lấy đi, thì tức là mình phải nói: ”cái bàn này của tui, không phải của ông đâu, ông lấy không có được!” do đó tức là mình không có rời bỏ được cái của.

(46:36) Thầy nói thậm chí như một tu sĩ chúng ta có một cái bình bát thôi, mà cứ sửa sang cho cái bình bát đẹp là cái người đó cũng bị hữu tham kiết sử rồi đó chứ chưa nói. Xả hết!

Cho nên thí dụ như chúng ta một có cái gì tốt, mà người ta xin thì vui lòng cho liền, thì cái người đó không bị hữu tham kiết sử, còn mình thấy cái vật này tốt, không dám cho, thì tức là mình còn bị hữu tham kiết sử nó trói buộc mình với cái vật đó.

Thí dụ cái đồng hồ của Thầy đây, mà ai hỏi xin Thầy nói “Đồng hồ này hư rồi, thôi để Thầy kiếm cái đồng hồ khác!” Nhưng mà đó là cái hữu tham kiết sử, Thầy muốn giữ nó đó, Thầy khéo léo nói vậy đó chớ Thầy muốn giữ nó Thầy không muốn rời nó đó, nó có những cái kỷ niệm của Thầy này kia, hồi đó có một cái người bạn nào đó mà biếu Thầy, bây giờ bỏ nó thì mất cái tình kỷ niệm.

(Xem tiếp ở Pháp hành 15)

HẾT BĂNG


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

763-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ.

  763-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ. Kinh sách của Tu viện Chơn Như chỉ kính biếu không bán . Phật tử cần kinh sách của Tu viện Chơn Như...