186- 8- THẤT KIẾT SỬ LÀ BẢY PHÁP TRÓI BUỘC CON NGƯỜI
(40:09) Hỏi: “Kính
bạch Thầy! Các cụm từ mà Đức Phật đã đặt ra Thất Kiết Sử, Ngũ Triền Cái, Thánh
phòng hộ sáu căn, xin Thầy giải thích cho con được hiểu?”
Đó, những
cái cụm từ này, nhiều khi các con cũng có nghe nói Thất Kiết Sử nè, Ngũ Triền
Cái nè mà không biết sao nó cũng có tham, sân, si gì tùm lum ở trỏng, không biết
nó giống nhau khác nhau chỗ nào? Bây giờ thầy Chân Thành hỏi, thì một người hỏi,
Thầy trả lời bao nhiêu người sẽ hiểu.
Đáp: “Thất Kiết Sử là bảy cái
pháp trói buộc con người, khiến cho đau khổ. Bảy pháp đó gồm:”
Bảy pháp đó
gồm có đó, nó gồm có cái gì đây?
“Một
là ái kiết sử.”
Thứ nhất là
ái kiết sử.
“Ái kiết
sử có nghĩa là lòng thương yêu, ưa mến, thích thú của mình, nó đã trói buộc
mình, làm cho mình đau khổ.”
Nghĩa cái
lòng thương yêu của mình đối với một cái đối tượng nào đó, một cái vật gì đó, đối
với cha mẹ anh em, đều nó thuộc về ái kiết sử. Cho nên cái lòng thương yêu đó
nó trói buộc mình, nó làm cho mình đau khổ.
Hoặc là mình
ưa thích một cái vật gì đó, thì cái đó cũng thuộc về ái kiết sử, cho nên nó
trói buộc mình dữ lắm. Bây giờ thí dụ như mình ưa thích cái nhà, thì chính cái
nhà đó là cái ái kiết sử, cho nên nó trói buộc mình, làm cho mình ưa thích nó,
vì vậy mà mình chịu đau khổ đủ cách, đó là ái kiết sử.
“Sân
kiết sử là lòng sân, buồn, tức, giận, dữ của mình đã trói buộc mình, làm cho
mình buồn khổ.”
Nghĩa là nó
kéo cho mình triền miên, nó luôn luôn nó miên mật ở trong cái lòng của mình, nó
làm cho mình cứ giận, nó kéo dài hoài hoài, cho nên nó trói buộc mình, nó làm
cho mình không có bao giờ nguôi cái lòng sân đó được, lòng giận hờn đó được. Đó
là cái sân kiết sử, nó trói buộc mình, nó làm cho mình kéo dài hoài, nó buộc
mình hoài.
(41:58) “Ba:
kiến kiết sử. Kiến kiết sử là sự cố chấp hiểu biết của mình, cho là đúng, còn tất
cả sự hiểu biết của người khác cho là sai. Vì thế nó tự trói buộc lại mình, làm
khổ mình, ai nói gì mình cũng chẳng nghe.”
Thí dụ như
bây giờ mình nói như thế này, tôi thì tuổi trẻ, còn nhỏ chưa biết đời, cho nên
phải hiểu đời rồi tu mới dễ xả bỏ, còn bây giờ chưa biết đời mà xả bỏ, tôi chưa
có biết gì hết, tôi xả bỏ khó lắm. Do đó cái ý kiến, cái kiến chấp của mình là
vậy.
Nhưng mà người
ta nói đời là khổ, đừng có nhiễm nó, nhiễm nó là xả không có được, nhưng mà
mình cứ mình chấp, mình chấp là có cái ý của mình như vậy, là mình phải hiểu đời
mình mới xả được, còn mình chưa hiểu. Do cái chỗ kiến chấp đó thì nó là kiến kiết
sử, nó trói buộc mình hoài, nó làm cho mình không có chấp cái lời nói của cái
người có kinh nghiệm đi qua.
Vì vậy mình
bị trói buộc ở trong đó, cho nên mình cứ ray rứt, mình khổ đau, mình phải như
thế nào, thế nào, nó làm cho mình phải tìm hiểu chớ còn không hiểu thì mình…
Nhưng mà khi mà đã hiểu rồi, thì tới chừng đó thì lời của những người mà người
ta, những cái hiểu biết của người ta, tức là kiến là cái hiểu biết của người
ta, người ta nói quá đúng rồi, bây giờ mình có rồi mình không xả được rồi!
Trời ơi! Bây
giờ có vợ, có con một bè rồi làm sao bây giờ mình xả đây? Trời ơi mình bỏ nó
đâu có được, cho nên vì vậy mà bây giờ mình dở chết dở sống. Hồi đó không có
thì khoẻ quá, mà bây giờ có thì khổ quá. Đó cho nên kiến kiết sử là nó trói buộc
mình rất chặt.
“Nghi
kiết sử là lòng nghi ngờ, tự trói buộc mình, làm khổ mình, mà chẳng bao giờ chịu
rời bỏ.”
Nghĩa là cái
lòng nghi của mình, mình nghi cái gì đó, mình không có chịu bỏ cái lòng nghi
đó, cho nên do cái chỗ đó mình sẽ mất đi cái nghị lực, mình mất hết cái nghị lực
của mình. Mình nghi cái chỗ đó. Thí dụ bây giờ mình nghi cái pháp đó tu không
được, thì mình hết có muốn tu nổi rồi.
“Một người học trò mà nghi thầy dạy mình là tu chưa tới nơi, lòng nghi
này làm cho mình không còn tu tập được nữa. (44:06) Như nghi đức Phật
là không đúng, hay đạo Phật không đúng, thì không còn theo đạo Phật tu nữa.”
Đó là cái
nghi mà nó sẽ mất đi cái chỗ tu tập của mình. Cho nên cái nghi kiết sử này nó
trói buộc, nó làm cho mình không có xả ra được, nó trói buộc mình. Do đó, từ đó
cái người học trò mà xa thầy, họ nghi ông thầy bằng cách này cách khác, mà họ
không có tự tìm hiểu cho nó rõ ràng.
Do đó họ bị
cái nghi đó mà họ không còn tu tập được với pháp của một vị thầy nữa. Cũng như
mình nghi Phật, thì tức là mình không thể nào mình theo đạo Phật được. Đó là
cái nghi nó trói buộc mình, từ đó mình bị trói buộc mà mình không có tự sáng suốt
lấy ra.
Bởi vậy Đức
Phật dạy, cũng như Thầy dạy, cái gì Thầy nói thì đừng có tin Thầy mà hãy suy ngẫm,
suy ngẫm rồi thấy đúng mới tin. Như vậy nó có còn nghi không? Nó không còn
nghi.
Còn bây giờ
Thầy nói thì không chịu nghe, không có chịu nghe cái lời giảng dạy của Thầy, do
đó không chịu suy ngẫm có đúng hay không, cho nên vì vậy đó mà mình đâm ra mình
nghi Thầy bằng cách này, cách khác, từ đó mình không còn tu tập nữa.
“Năm: mạn kiết
sử, là lòng ngã mạn, kiêu căng, tự đắc, tự trói buộc mình, lúc nào cũng tự xem
mình là trên hết. Do lòng hiu hiu tự đắc này đã làm khổ mình,”
Tức là đã
trói buộc đó, đã làm mình rất khổ mà mình không có hay biết gì, mình tưởng mình
ngon, tưởng mình hay đó, cho nên mình cứ tự coi như là mình ngon nhất đó. Thì
do đó nó tự làm cho mình trói buộc mình mà mình không có chịu bỏ cái chỗ đó.
Cho nên hầu
như người ta có một chút ít học thức nào đó, bỗng dưng người ta có cái mạn kiết
sử liền tức khắc, nó trói buộc họ, họ coi cái chỗ học của họ là hơn hết, cho
nên họ bị cái ngã mạn, cái mạn đó.
“Sáu
là hữu tham kiết sử.”
Hữu tham kiết
sử là những cái vật mình có sẵn rồi, như bây giờ mình có cái nhà, cái đồng hồ,
cái bàn, ghế, cái này kia, những cái vật mình có sẵn rồi, mà bây giờ những cái
vật này nó mất đi, mình buồn nè, mất đi mình tiếc nè, ai làm hư thì mình giận,
mình chửi người ta nè. Thì đó gọi là hữu tham kiết sử, nó làm cho mình buông xả
không được, tức là mình bị trói buộc.
Cũng như cái
nhà mình bây giờ có người nào lại họ lấy đi, hay hoặc cái bàn này họ lấy đi,
thì tức là mình phải nói: ”cái bàn này của tui, không phải của ông đâu,
ông lấy không có được!” do đó tức là mình không có rời bỏ được cái của.
(46:36) Thầy
nói thậm chí như một tu sĩ chúng ta có một cái bình bát thôi, mà cứ sửa sang
cho cái bình bát đẹp là cái người đó cũng bị hữu tham kiết sử rồi đó chứ chưa
nói. Xả hết!
Cho nên thí
dụ như chúng ta một có cái gì tốt, mà người ta xin thì vui lòng cho liền, thì
cái người đó không bị hữu tham kiết sử, còn mình thấy cái vật này tốt, không
dám cho, thì tức là mình còn bị hữu tham kiết sử nó trói buộc mình với cái vật
đó.
Thí dụ cái đồng
hồ của Thầy đây, mà ai hỏi xin Thầy nói “Đồng hồ này hư rồi, thôi để Thầy
kiếm cái đồng hồ khác!” Nhưng mà đó là cái hữu tham kiết sử, Thầy muốn
giữ nó đó, Thầy khéo léo nói vậy đó chớ Thầy muốn giữ nó Thầy không muốn rời nó
đó, nó có những cái kỷ niệm của Thầy này kia, hồi đó có một cái người bạn nào
đó mà biếu Thầy, bây giờ bỏ nó thì mất cái tình kỷ niệm.
(Xem tiếp
ở Pháp hành 15)
HẾT BĂNG

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét