131- 5- BÀI TẬP HƠI THỞ THỨ HAI - THIỆN XẢO AN TRÚ THÂN TÂM
(19:50) Ở
đây tới cái bài tập thứ hai. Ở đây cái bài tập thứ nhất thì Thầy đã xác định
cho quý thầy biết rằng cái định đó là cái Định Diệt Tầm mà giữ Tứ đó. Bây giờ tới
cái bài tập thứ hai.
Bài tập thứ
hai cũng nương vào cái hơi thở mà tu tập, cho nên đây thì Đức Phật hướng tâm nhắc
như thế nào trước: “Cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô, cảm giác toàn thân tôi
sẽ thở ra”, tức là cái hướng tâm theo đó.
Nghĩa là bây
giờ đó, khi mình tu tập cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ nó đã không có Tầm nữa rồi,
thì tức là nó sẽ có một sự an ổn. Mà cái sự an ổn đó thì tức là cái gì mà an ổn
đó cho cái thân này? Thì cái cảm giác, cái cảm giác toàn thân chúng ta thấy nó
có cái sự an ổn đó. Cho nên cái cảm giác toàn thân tôi biết.
Bởi vì lúc bấy
giờ nó tỉnh thức, do cái chỗ mà không có cái tạp niệm xen vô đó, thì cái cảm
giác toàn thân mình thấy rất rõ. Nó xảy ra cái gì mình thấy rất rõ, nó an lạc,
nó không an lạc, biết rất rõ, nó rất là kỹ lưỡng.
Cho nên ở
đây, đầu tiên vô cái bài pháp thứ hai này, thì Đức Phật dạy “Cảm giác toàn
thân tôi sẽ thở vô, cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra”, thì nó cũng nương
theo hơi thở. Và khi mà mình nhắc như vậy, mình lại thở năm, mười hơi thở, thì
mình, cái cảm giác đối với cái thân của mình nó vẫn còn bàng bạc ở trong cái
thân của mình, chớ chưa phải mất đâu.
Cho nên lúc
bấy giờ, mất cái cảm giác đó đó, mà cái bài tập thứ hai này nó làm cho cái tâm
của chúng ta nó có một cái trạng thái rất là an ổn. Từ đó chúng ta tiếp tục
chúng ta tu cái hơi thở này.
Cái hơi thở
mà “cảm giác toàn thân” này chúng ta tu, tu cho đến một lúc thì chúng ta
lại thuần thục, thuần thục thì nó lại thấy rõ ràng một cái sự an tịnh của thân
hành của mình.
Nghĩa là cái
hơi thở ra vô mà nó có cái an tịnh ở trong đó. Cho nên lúc bấy giờ chúng ta cảm
thấy có một cái sự an tịnh thật sự, tức là cái cảm giác toàn thân chúng ta thấy
có sự an tịnh. Vì vậy mà bắt đầu thì chúng ta nói “an tịnh thân hành tôi sẽ
thở vô, an tịnh thân hành tôi sẽ thở ra”.
Đó, bây giờ
mình có một cái cảm giác của sự an tịnh của cái thân của mình, mà thân hành là
cái động dụng của cái hơi thở chúng ta ra vô, mà chúng ta thấy an, rất là an ổn,
mà rất là thanh tịnh. Cho nên mình nhắc cái câu đó, mình hướng tâm để cho cái
trạng thái đó nó được an trú.
Cho nên Phật
dạy như thế nào? Thiện xảo an trú trong định! Thiện xảo là mình phải khéo léo,
mà khi nó có cái đó rồi thì mình nhắc cái đó đó, nó sẽ kéo dài cái đó ra. Mình
nhắc cái trạng thái đó nó sẽ kéo dài ra.
(22:38) Thí
dụ bây giờ mình có sự an tịnh rồi, mình nhắc “an tịnh thân hành tôi sẽ thở
vô”, thở vô tức là mình nương vào hơi thở, nhưng mà cái cảm giác an tịnh đó
là nó làm cho cái tâm của mình ở trong cái trạng thái để cho nó thích thú, để
cho nó ham tu, để cho nó thoải mái, dễ chịu.
Mình nương
hơi thở mà mình không thấy có sự an tịnh, không có sự thoải mái dễ chịu, thì
mình tu mình lười biếng lắm. Nhưng mà ở đây mình thấy toàn thân an tịnh, qua
cái hành động của nội thân của mình, mình nghe nó rất an ổn.
Cho nên ở
đây “an tịnh thân hành tôi sẽ thở vô”, thở vô là cái hành động của
cái thân, nội thân. “An tịnh thân hành tôi sẽ thở ra”, thì bây giờ
đó mình thấy cái sự an tịnh nó đã được có rồi. Nó làm cho mình thấy thích thú,
rồi bắt đầu mình thấy mình bây giờ cỡ mình không nhắc nó nữa nó vẫn còn có, cho
nên cái tu tập của mình nó vẫn còn có liên tục chớ nó không có mất.
Thì trong
cái bài tập thứ hai này, thì chúng ta thấy đây là cái thân, cảm giác toàn thân,
rồi cảm giác an tịnh thân hành, hai cái này nó thuộc về thân. Cho nên bây giờ
đó, khi mà cái bài tập thứ hai này mà nó đã được cái sự an tịnh, thì an tịnh nó
sẽ có một cái cảm giác của nó, một cái cảm giác của nó như thế nào?
(24:03) Cái
cảm giác nó vui mừng, lâng lâng ở trong lòng của mình. Cho nên ở đây, qua cái
phần kế của cái cảm giác an tịnh này, thì Đức Phật dạy “cảm giác hỷ thọ tôi
sẽ thở vô, cảm giác hỷ thọ tôi sẽ thở ra”.
Nghĩa là bây
giờ mình thấy có cái niềm vui, cái niềm vui là do cái sự an tịnh này, nó thấy
mình có những cái sự tu tập của cái Định Niệm Hơi Thở. Cái Định Diệt Tầm Giữ Tứ
này nó mang lại cho mình có cái niềm vui, có sự an tịnh, có sự cảm giác toàn
thân, cái sự an tịnh, rồi có một niềm vui nho nhỏ trong tâm hồn của mình, trong
hơi thở ra và hơi thở vô của mình. Thì khi mà nó có cái niềm vui đó rồi thì cái
thân của mình nghe nó nhẹ nhàng, khinh an vô cùng lận.
(24:52) Cho
nên Đức Phật tiếp tới thì Đức Phật cũng nương theo hơi thở để mà lắng nghe được
cái trạng thái an ổn, khinh an của cái thân của mình. Cho nên Đức Phật dạy,
mình cũng nương hơi thở chớ đâu có lìa hơi thở được, lìa hơi thở thì coi chừng
nó sẽ rơi vào chỗ xúc tưởng hỷ lạc mất đi.
Cho nên cứ
ôm chặt hơi thở mà nhắc những cái đó, để cho nó, cái trạng thái do cái định mà
nó xuất hiện, do cái định mà nó sanh ra mà nó không bị mất. Cho nên “Cảm
giác lạc thọ tôi sẽ thở vô, cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở ra”.
Hồi nãy hỷ
là cái niềm vui, cái niềm mà nó có được cái sự an ổn thân tâm của mình qua những
cái hành của thân, qua những cái cảm giác của toàn thân. Bây giờ cái hỷ đó đã
làm cho mình vui, mà mình vui thì mình thấy rằng cái thân của mình bây giờ nó
an lạc, nó nhẹ nhàng, nó phơi phới. Cái thọ lạc này nó đi đến nó làm cho chúng
ta thấy quá là khinh an ở trong cái thân và tâm của chúng ta.
Cho nên ở
đây khi mà có cái trạng thái đó rồi, thì lúc bấy giờ chúng ta cũng nương vào
hơi thở, thỉnh thoảng chúng ta lại nhắc, nhắc nó một câu: “Cảm giác lạc thọ
tôi sẽ thở vô, cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở ra”.
Và đây là,
các thầy cũng như các con, nếu mà học thuộc lòng cái này, khi nó có đến thì
chúng ta hướng lên, bởi vì nó thuộc lòng. Còn khi mà nó có đến rồi chúng ta
quên, không biết làm sao đây, nói làm sao đây? Thầy có dạy rồi mà mình không biết
mình nói như thế nào đây? Lúc đó cứ nhớ chữ lạc, chữ hỷ rồi không biết nói làm
sao, quên cái chữ “cảm giác”, hoặc là quên chữ “an tịnh” mất đi rồi.
Cho nên mình
không biết làm sao mà cấu kết được cái pháp hướng. Do vì vậy đó mà các con và
các thầy ghi chép lại cái câu này, là câu này từ ở trong kinh Đức Phật đã chọn
để cho các đệ tử Người để thực hiện, cho nên chúng ta cũng nên ghi chép.
(26:42) Nhưng
mà chúng ta có thể viết những cái câu pháp hướng khác, tùy theo cái đặc tướng của
chúng ta, mà nó phù hợp hơn là những cái câu này của Phật dạy. Nhiều khi chúng
ta dẫm lại cái pháp hướng của Phật, nó không trúng cái đặc tướng của chúng ta,
nó làm chúng ta khó chịu.
Thí dụ như
câu này nó dài quá, bắt buộc mình phải thở chậm quá, cho nên làm mệt, nương
theo cái hơi thở mình nói một hơi, mình hướng tâm vừa thở mà vừa nói, mình phải
ráng mình thở cho thiệt chậm đặng cho nó hết câu nói chớ gì! Do đó hết câu nói
nó mệt muốn đứt hơi mình! Vì vậy mà an lạc không thấy, hỷ thọ không thấy, khinh
an không thấy, mà thấy mệt, mà thấy khổ sở, đó là mình tu sai.
Cho nên do
vì vậy mà cái đặc tướng của cái hơi thở của mình nó dài, thì mình tạo cái câu
dài hơn để mình nhắc nhở. Mà cái thân của mình nó có cái đặc tướng thở cái hơi
thở ngắn, mà mình thở chậm mà dài để mình hướng tâm cho hết cái câu theo hơi thở
của mình, thì lúc bấy giờ mình sẽ hoàn toàn là mình thấy khó chịu.
Cho nên nó
tùy theo cái hơi thở ngắn, hơi thở dài, rồi mình chế biến cái câu này nó nói
theo cái hơi thở ngắn của nó, nó nhanh chóng hơn. Thí dụ như nói “an tịnh
thân hành” thì mình chỉ bỏ chữ “thân hành” đi, thì mình nói: “An
tịnh tôi sẽ thở vô, an tịnh tôi sẽ thở ra”.
Tức là mình
biết cái gì an tịnh, cái thân của mình chớ gì? Thì mình bỏ bớt đi, thì nó làm
cho nó vừa với cái hơi thở vô và hơi thở ra của mình. Đó là khi mà tu hành thì
mình còn phải khéo léo để trạch pháp, chọn lấy một cái câu nó vừa hợp với cái
khả năng riêng biệt của mình.
Bây giờ cái
phần kế nữa. Thì chúng ta đã tu tới cái “Cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở
vô, cảm giác lạc thọ tôi sẽ thở ra”. Cảm giác tâm hành, bây giờ tới về phần
tâm rồi. Hồi nãy là phần thân, rồi phần thọ, bây giờ về tới phần tâm:
“Cảm giác
tâm hành tôi sẽ thở vô, cảm giác tâm hành tôi sẽ thở ra”. Thì hồi nãy thân cũng cảm giác, rồi
tâm cũng cảm giác, bây giờ cái tâm nó cảm giác tâm khác à. Các con cũng như các
thầy nên lưu ý về cái phần thân và phần tâm. Hai cái tuy rằng nó một cái danh từ
gọi vậy chứ cái tâm nó khác, mà cái thân nó khác.
(29:08) Rồi
bây giờ cái tâm của mình. cái tâm hành của mình, mà mình thấy nó an ổn, thì cho
nên mình thở hơi thở mình cũng nương vào “An tịnh tâm hành tôi sẽ thở vô, an
tịnh tâm hành tôi sẽ thở ra”.
Đó thì bây
giờ đó, mình đã thấy cái sự an tịnh của tâm của mình như thế nào, thì mình biết
cái tâm mình nó rất an tịnh như thế nào, thì mình rõ để mình hướng theo cái hơi
thở, để mình an trú ở trong cái an tịnh đó, nó kéo dài ra. Tức là nhờ hướng như
vậy, nó sẽ kéo dài cái trạng thái an tịnh đó. Còn nếu mình không hướng thì nó một
lúc thì nó lại mất đi, nó không còn có nữa.
Rồi bây giờ
đó, khi mà cái tâm của mình nó có sự an tịnh như vậy đó, thì mình có cái sự tỉnh
thức đối với cái tâm rất rõ ràng và cụ thể lắm, cho nên cái cảm giác về tâm thì
mình thấy rất rõ tâm mình như thế nào.
Còn bây giờ
nhiều khi cái thân của mình nó có những cái cảm thọ mát, lạnh, nóng thì mình biết,
nhưng mà nói về cái tâm thì mình thấy, mình không biết cái tâm nó cảm giác như
thế nào, như thế nào thì mình không biết. Nhưng mà khi mình tu đó, rồi từ đó nó
có cái sức tỉnh, thì mình thấy cái cảm giác về cái tâm của mình nó sao, nó
không giống như cái thân đâu.
“Cảm giác
về tâm tôi sẽ thở vô, cảm giác về tâm tôi sẽ thở ra”. Đó. Và khi mà mình tu
tập tới cái hơi thở tới chỗ này rồi, thì mình thấy cái thân tâm của mình nó rất
là an ổn, nó rất là khinh an, nó rất là nhẹ nhàng. Cho nên lúc bấy giờ luôn
luôn lúc nào mình cũng vui vẻ, mình cũng thích thú ở trong cái sự tu tập.
Cho nên cái
bài tập kế này về cái Định Niệm Hơi Thở, thì quý thầy cũng nên nhớ rằng khi mà
nó đạt được những cái kết quả về tâm như vậy rồi, thì cái tâm vui mừng của
mình, tức là cái tâm hân hoan nó sẽ thể hiện.
Lúc nào nó
cũng vui vẻ, cho nên người ta chửi mình cũng không biết giận, là tại vì mình
vui quá vui rồi, cho nên mình không biết giận ai hết. Người ta nói mình chó,
trâu, mình thấy mình cũng vui nữa, không có buồn nữa.
Cho nên hầu
hết là mình tu, tại vì mình tu không đúng cách, cho nên do vì vậy mà mình cố
mình dùng cái Định Vô Lậu, mình cố mình hướng tâm mình xả nó. Nhưng mà mình nhớ
rằng mình tu tập đúng cách rồi, tự nhiên cái tâm nó vui, nó vui rồi mình cũng dễ
tha thứ mọi người nữa.
Mình vui quá
mà, đâu có còn giận ai nữa, cho nên khi nghe người ta chửi mình mình cũng không
biết giận nữa, vì cái tâm mình hân hoan. Cho nên ở đây cũng nương vào cái hơi
thở mà tu tập cái tâm: “Với tâm hân hoan tôi sẽ thở vô, với tâm hân hoan tôi
sẽ thở ra”.
Đó rõ ràng,
mình nhắc. Ở đây nó có phần, có tâm hân hoan nhắc, thì rất là cụ thể. Mà không
có tâm hân hoan nhắc, thì mình tu một lúc sau thì lại có hiện ra tướng hân hoan
của cái tâm của mình. Đó.
Cái gì cũng
vậy, mình cố gắng mình tu tập, thì đầu nó chưa có, nhưng mà sau nó lại có. Rồi
khi mà cái tâm hân hoan mình nó đã có rồi, thì cái sức định tỉnh nó sẽ làm cho
chúng ta biết rõ ràng hơi thở.
(32:16) Còn
đằng này quý thầy tu thiền định, quý thầy ngồi. Khi mà có cái trạng thái hỷ lạc,
an ổn cho quý thầy, thì lần lần cái tỉnh thức đó lại mờ mờ mờ mờ, nó lần lần lần,
nó theo cái sự say say của hỷ lạc đó, nó làm riết, cái tâm của quý vị nó mất,
nhiều khi nó vô ký nó không biết nữa. Nó thích cái an lạc, thích cái khinh an lắm,
nhưng mà nó cứ ôm chặt theo cái đó, thì nó đi riết cái nó lạc mất.
Còn cái này
nó càng lúc nó lại càng tỉnh táo lên, nó càng rõ ràng lên, cái sự hân hoan, cái
sự an tịnh của thân, của tâm của mình như thế nào, nó càng biết rõ, càng lúc nó
tỉnh táo, nó càng nhiều cái sức tỉnh táo hơn.
Cho nên lúc
bấy giờ do cái sức tỉnh táo đó thì chúng ta cũng nương vào hơi thở để mà an trú
cái sức tỉnh táo đó, nó kéo dài trong cái thời gian mà chúng ta tu tập thiền định.
“Với tâm
định tỉnh”, đó
bây giờ nó có tỉnh thức rồi, cho nên mình mới nhắc: “Với tâm định tỉnh tôi sẽ
thở vô, với tâm định tỉnh tôi sẽ thở ra”.
Nhưng mà
mình tu một thời gian, mà mình thấy cái tâm mình nó không định tỉnh, nó luôn
luôn nó mờ mịt, nó muốn buồn ngủ, nó muốn hôn trầm gì đủ thứ, nó làm sao cũng
không có tỉnh táo, mình nhắc: “Với tâm định tỉnh tôi sẽ thở vô, với tâm định
tỉnh tôi sẽ thở ra”.
Mình nhắc một
hơi thì mình nhìn lại mình thấy nó định tỉnh, nó sáng suốt ra. Đó. Rồi bây giờ
trong cái hoàn cảnh của mình, nó có những cái đối tượng. Khi mình ngồi mình xếp
chân lại để mình tu cái tâm không Tầm Tứ, Diệt Tầm Giữ Tứ đó, mà mình tu thì
cái sự việc đó nó làm cho cái tâm của mình nó bận rộn, nó suy tư, nó lo lắng.
Thì bây giờ
mình làm sao để cho nó hết suy tư lo lắng, để cho mình ngồi lại mình tu cho được?
Nhiều khi nó có chuyện gì, rồi bắt đầu mình ngồi vô cái mình lo lắng, mình ngồi
đó mình nhiếp tâm không được, nó cứ nghĩ ngợi cái này kia. Nhất là cái sợ hãi,
nó làm cho mình không có yên tâm chút nào mà ngồi đó mà nhiếp tâm nổi hết.
(34:19) Cho
nên vì vậy đó, mình phải nhắc cái tâm của mình “Với tâm giải thoát tôi sẽ thở
vô, với tâm giải thoát tôi sẽ thở ra”. Thí dụ như vừa lúc nãy có một người
chửi mắng mình, bây giờ mình ngồi lại nghe nó tức tối quá, mà nó không có được
giải thoát như vậy, thì nó làm sao nó yên mà mình tu?
Cho nên mình
phải dùng cái câu pháp hướng này. Nghĩa là nó đang giận hờn, tức bực ai đó, hay
hoặc là nó đương thương, nhớ, hay lo lắng ai đó, hay hoặc mình có một người
thân đang bệnh, mà giờ tâm nó cứ lo cho người thân, sợ uống thuốc không hết rồi
chết đi, mình sẽ mất mẹ, mất cha mình đi, buồn quá!
Cho nên cái
tâm nó làm cho mình bồn chồn, lo sợ đủ cách, thì mình ngay đó mình phải nhắc “Với
tâm giải thoát tôi sẽ thở vô, với tâm giải thoát tôi sẽ thở ra”. Mình nhắc
một hơi thì cái tâm nó bắt đầu nó an trú, nó không có còn sợ hãi, bồn chồn nữa,
nó không còn lo lắng nữa.
Tùy theo mỗi
cái đặc tướng, mỗi cái hoàn cảnh của mình nó xảy ra một cái gì, thì mình dùng
cái câu pháp hướng đó để nhắc, để dẹp cái đó xuống đi, để đem lại cái sự bình
tĩnh, định tỉnh cho cái thân tâm của mình.
Bởi vì cái
tu tập này nó rất khéo léo. Cái tâm mình nó chưa được định tỉnh, mình ngồi lại
thì nó chuyện này đến chuyện kia nó lăng xăng ở trong đầu, thì mình nhắc “Với
tâm định tỉnh tôi sẽ thở vô, với tâm định tỉnh tôi sẽ thở ra”.
Rồi mình thở
năm, ba hơi thở mình lại nhắc nó để cho nó định tỉnh. Cho nên nó định tỉnh được
rồi, bắt đầu nó không còn rối nữa, ở trong đó nó không có loạn tưởng ở trong đó
nữa.
Còn bây giờ
cái hoàn cảnh của mình nó không giải thoát, mình ngồi lại thì tâm mình nó lăng
xăng, lộn xộn, nó khó quá. Cho nên mình nhắc tâm mình phải giải thoát, làm cho
nó giải thoát, cho nên nhắc riết một hơi cái nó xả những cái điều mà lăng xăng ở
trong đầu nó, những cái lo lắng suy tư, những cái sợ hãi của nó.
Xả nó được rồi,
bắt đầu chúng ta thấy mình an tịnh ở trong cái hơi thở. Cho nên lúc bấy giờ tâm
của mình an tịnh, hay là thân của mình an tịnh, thì khi mình thấy nó an tịnh rồi,
mình muốn kéo dài cái trạng thái đó ra thì mình nhắc “An tịnh tâm hành tôi sẽ
thở vô, an tịnh tâm hành tôi sẽ thở ra”.
(36:20) Chớ
không phải các thầy nghĩ rằng, không phải là mình sắp xếp từ bài một cho đến
bài hai như thế này, rồi mình mới tu tuần tự thứ tự như vậy. Không phải đâu. Ở
đây nó lộn xộn đủ thứ. Tùy theo cái tâm của mình lúc bấy giờ nó ở trạng thái
nào thì mình phải dùng cái câu pháp hướng đó nó ở trạng thái đó.
Hoặc là mình
đang muốn được ở trạng thái đó, cái tâm ước muốn mình được an ở trong cái trạng
thái đó. Mà cái trạng thái đó bây giờ nó đang buồn khổ, thì mình nhắc cái trạng
thái mình ước muốn để cho nó hân hoan để cho nó vui vẻ đó. Thì mình nhắc một
hơi, mình nương theo hơi thở một lúc, thì nó sẽ đạt được cái kết quả của cái
pháp hướng.
Các thầy,
các con nhớ được không? Nhớ như vậy, thì chúng ta mới biết rằng, ở đây không thể
nào mà sắp thứ tự rằng chúng ta phải tu cái pháp bài thứ nhất, bài thứ hai, bài
thứ ba đâu.
Mà ở đây những
cái câu này nó tùy theo những trạng thái, khi bắt đầu từ cái chỗ “Cảm giác
toàn thân tôi sẽ thở vô, cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra”, tùy theo mọi
cái hoàn cảnh mà chúng ta sử dụng câu đó trước, hay hoặc là câu kia sau, chớ
không phải là có một thứ lớp.
(37:22) Còn
nhất định là chúng ta mới đầu, chúng tu tập cái bài thứ nhất đó, về Định Niệm
Hơi Thở, để mà chúng ta biết cái hơi thở, chánh niệm ở trong hơi thở dài, hơi
thở ngắn của chúng ta.
Khi mà chúng
ta nói dài trước, thì chúng ta biết rằng mình theo không có kịp, hơi mệt, cho
nên vì vậy mình nên thở ngắn. Mình thở ngắn thì tức là nó vừa với sức của mình,
thì mình hướng cái câu hướng đó, hoặc nhanh hơn, hoặc chậm hơn một chút, để cho
nó vừa với cái đặc tướng hơi thở của mình.
Vì vậy mà
cái bài tập thứ nhất thì các con sẽ đạt được những cái kết quả đầu tiên, tức là
Diệt Tầm Giữ Tứ. Đó là cái Định Diệt Tâm Giữ Tứ
Bài tập thứ
hai là tùy theo những cảm giác thân tâm của mình, mà có thể hướng tâm an tịnh
trước, hoặc hướng tâm hỷ trước, hoặc hướng tâm lạc trước, hoặc hướng tâm cảm
giác tâm hành trước, hay hoặc là thân hành trước. Tùy theo nó ở trạng thái nào
thì chúng ta sử dụng cái pháp hướng đó ở cái trạng thái nấy.
Cho đến cái
câu mà: “Với tâm giải thoát tôi sẽ thở vô, với tâm giải thoát tôi sẽ thở ra”,
thì cái câu mà tâm giải thoát thở vô, thở ra này, thì rõ ràng là nó sẽ áp dụng
đầu hay hoặc là áp dụng đuôi, tùy theo cái chỗ đó.
Bây giờ tới
cuối cùng mình, “với tâm định tỉnh”, “với tâm hân hoan”, “với cảm giác
về tâm”, rồi “cảm giác an tịnh tâm hành”, tất cả mọi
cái, khi mà nó, cuối cùng, nó thấy được cái sự giải thoát của nó thì mình lại
nhắc giải thoát. Nghĩa là ở trạng thái tâm nào thì chúng ta phải tu pháp hướng
đó ở trạng thái tâm nấy.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét