28-TỨ NIỆM XỨ
Khi tu tập Tứ
Chánh Cần thuần thục, thì không còn ác pháp tới lui nữa, đức Phật cảm nhận thân
tâm mình tham, sân, si giảm bớt thấy rất rõ ràng. Đồng thời trạng thái tâm bất
động, thanh thản, an lạc và vô sự rõ ràng hơn, và mỗi ngày đức Phật càng tăng
thời gian kéo dài thêm trạng thái đó.
Lúc bấy giờ,
đức Phật thấy tâm mình rất lạ lùng, là luôn luôn cảm nhận toàn thân tâm của
mình trong hơi thở ra và hơi thở vào, từ canh này sang canh khác, không có một
niệm nào xen vào; không một ác pháp nào khởi ra được, nhất là các ác pháp bên
ngoài không tác động vào được than tâm. Do trạng thái này, đức Phật không còn
phải ngăn, diệt dục và ác pháp như trong pháp môn tu tập Tứ Chánh Cần.
Khi tu tập
pháp môn Tứ Chánh Cần thì niệm dục và niệm ác pháp khởi liên tục, còn bây giờ
thì khác xa, tâm không có bất kỳ một niệm ác hay dục khởi lên một cách rất tự
nhiên, chớ không phải còn gò bó ra công tu tập như ngày xưa nữa.
Với cách
quán xét thân, thọ, tâm, pháp như vậy, từ ngày này sang ngày khác, chỉ duy nhất
có một cảm nhận quán xét trên toàn thân. Khi trạng thái này xuất hiện thì sự tu
tập Tâm Bất Động của đức Phật rất dễ dàng và thoải mái.
Suốt thời
gian còn lại hơn 7 ngày, trong 49 ngày tu tập dưới cội bồ đề, đức Phật thấy rất
rõ tâm mình có một cảm nhận trên thân quán than như vậy, không có một tâm niệm
nào khác nữa.
Trong suốt 7
ngày đêm mà đức Phật tưởng chừng như trong một khoảng thời gian rất ngắn, chỉ
hơn một phút. Ở trạng thái tâm này kéo dài cho đến khi tâm Vô Lậu hoàn toàn. Nhờ
tâm Vô Lậu hoàn toàn nên mới có đầy đủ Tứ Thần Túc. Đó là lúc chứng đạo giải
thoát. Từ trạng thái tu tập tâm này, đức Phật mới đặt cho nó một cái tên
đúng nghĩa quán bốn chỗ của nó: “Tứ Niệm Xứ”.
Khởi đầu đức
Phật tu tập Sơ Thiền của ngoại đạo, nhưng do sáng kiến biết sáng tạo ra những
pháp tu hành để ly dục, ly ác, làm chủ sinh, già, bệnh, chết, tức là làm chủ
thân tâm. Và cuối cùng đức Phật thành tựu tâm Vô Lậu bằng pháp môn Tứ Niệm Xứ,
chứ không phải nhập Sơ Thiền theo pháp môn của ngoại đạo.
Bởi vậy, pháp môn Tứ Niệm Xứ chỉ có đạo Phật mới có, còn tất cả các tôn giáo khác đều không có pháp môn này. Tại sao lại gọi là TỨ NIỆM XỨ? Tứ Niệm Xứ có nghĩa là bốn nơi dùng để quán xét, nó gồm có:
1- Thân là phần cơ thể đầu, mình, hai tay và hai chân.
2- Thọ là các cảm thọ của thân và tâm.
3- Tâm là phần sáu thức tiếp xúc sáu trần.
4- Pháp là thân, thọ, tâm và sáu trần đang xung quanh chúng ta.
Trong bốn
nơi này, chỉ cần quán xét một nơi là quán xét tất cả bốn nơi. Cho nên mới gọi
là Tứ Chánh Cần. Trên Tứ Niệm Xứ có ba giai đoạn tu tập:
1- Tứ
Chánh Cần tu tập trên Tứ Niệm Xứ. (Giai đoạn này người mới tu vẫn tu tập
được và tu tập như vậy mới có căn bản).
2- Tứ
Niệm Xứ tu tập trên Tứ Niệm Xứ. (Giai đoạn này rất khó tu, nếu mất căn
bản thì không nhiếp phục được tham ưu trên thân, thọ, tâm và pháp).
3- Thân
Hành Niệm tu tập trên Tứ Niệm Xứ. (Giai đoạn này là giai đoạn cuối
cùng của Tứ Niệm Xứ, nó chuyên tu tập lệnh để thực hiện Tứ Như Ý Túc).
Tứ Chánh Cần
tu tập trên Tứ Niệm Xứ là phương pháp tu tập lớp Chánh Tinh Tấn, lớp thứ sáu
trong Bát Chánh Đạo. Còn Tứ Niệm Xứ tu tập trên Tứ Niệm Xứ là phương pháp tu tập
lớp thứ bảy, tức là lớp Chánh Niệm trong Bát
Chánh Đạo. Lớp thứ bảy là lớp tu chứng đạo của Phật giáo. Ngoài pháp môn Tứ Niệm
Xứ thì không có pháp nào tu chứng đạo giải thoát được.
Bởi trên Tứ
Niệm Xứ có ba giai đoạn tu tập, cho nên có những bài kinh đức Phật dạy tu tập Tứ
Niệm Xứ, nhưng kỳ thực là dạy tu tập Tứ Chánh Cần trên Tứ Niệm Xứ. Đây,
chúng ta hãy lắng nghe Phật dạy:
“Những tỳ-kheo
nào, này các tỳ-kheo, mới xuất gia tu chẳng bao lâu, mới đến trong những pháp
luật này. Những tỳ-kheo ấy, này các tỳ-kheo, cần phải được khích lệ
(samàdapetabbà), cần phải được hướng dẫn, cần phải được an trú, tu tập Bốn Niệm
Xứ (thân, thọ, tâm, pháp). Hãy chuyên chú với tâm thanh tịnh, định tỉnh nhất
tâm để có chánh trí như thật đối với các pháp”.
Cho nên, người
mới xuất gia vẫn tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ, nhưng phải tu tập ở giai đoạn đầu
là Tứ Chánh Cần trên Tứ Niệm Xứ. Bởi vậy, nếu một người không có tu tập thì
không thể nào hiểu được pháp môn Tứ Niệm Xứ, và cũng không hiểu được Giới Luật.
Thưa các bạn!
Các bạn muốn biết rõ pháp môn Tứ Niệm Xư thì hãy lắng nghe đức Phật dạy:
“Một thời,
Thế Tôn ở Vesàli tại rừng Ambapàli. Ở đây, Thế Tôn gọi các tỳ-kheo: Này các tỳ-kheo,
tỳ-kheo cần phải trú Chánh Niệm Tĩnh Giác. Đây là lời giáo giới của Như Lai cho
các Thầy.
Và này
các tỳ-kheo, thế nào là tỳ-kheo Chánh Niệm? Ở đây, này các tỳ-kheo, tỳ-kheo trú
quán thân trên thân, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời;
trú quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở
đời; trú quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu
ở đời; trú quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh niệm nhiếp phục
tham ưu ở đời. Như vậy, này các tỳ-kheo, là tỳ-kheo ChánhNiệm”.
Đoạn kinh
trên đây dạy chúng ta cách thức chánh niệm, tức là học lớp Chánh Niệm. Vậy
Chánh Niệm là gì? Theo đoạn kinh này, thì Chánh Niệm là niệm Thanh Thản,
An Lạc và Vô Sự. Niệm thanh thản, an lạc và vô sự hiện tiền trên bốn chỗ
Thân, Thọ, Tâm, Pháp thì tà niệm không bao giờ xen vào được. Nếu tà niệm xen
vào được thì tức khắc phải nhiếp phục, không được để chúng tác động vào thân,
thọ, tâm và pháp.
Như đã nói ở
phần Tứ Chánh Cần, Tà Niệm là các niệm dục và ác pháp trên thân tâm. Nhưng sang
giai đoạn tu tập Tứ Niệm Xứ, thân tâm chỉ còn các tà niệm vi tế, chứ không còn
các tà niệm thô như lúc mới tu tập ngăn ác, diệt ác pháp.
Vậy
còn Trên Thân Quán Thân là như thế nào? Trên thân quán thân có
nghĩa là dùng mắt nhìn thấy, tai lắng nghe, thân cảm nhận xúc chạm và ý thức
quan sát ngay trên thân. Nếu thân có đau nhức chỗ nào liền biết ngay, thân đi
biết thân đi, thân ngồi biết thân ngồi, thân nằm biết thân nằm, thân đứng biết
thân đứng, v.v...
Tuy nói trên
thân quán thân nhưng thật sự là đang quán bốn chỗ: thân, thọ, tâm
và pháp. Vì biết thân là biết thọ, biết thọ là biết tâm, biết tâm là
biết pháp, biết pháp là biết thân. Cho nên trên Tứ Niệm Xứ, biết chỗ này thì liền
biết chỗ khác. Bốn chỗ này như một khối. Tuy nói bốn nhưng mà một.
Quán thân
trên thân, tức là tâm tỉnh thức trên thân, nên thân xảy ra một điều gì dù lớn
lao hay nhỏ nhặt tâm đều biết rất rõ. Cho nên nói trên thân quán thân chớ kỳ thực
là quán Tâm Bất Động, nếu Tâm Bất Động suốt bảy ngày đêm là tu tập chứng đạo.
Còn ngược lại, trong bảy ngày đêm tâm thường bị hôn trầm, thùy miên, vô ký và
loạn tưởng thì nên dùng pháp Ngăn Ác, Diệt Ác, để mà diệt các ác pháp này.
Bởi vậy,
pháp môn Tứ Niệm Xứ là một pháp môn tu tập để chứng đạo. Pháp môn này rất quan
trọng, nếu ai không tu tập nó thì không bao giờ chứng đạo. Cho nên chúng ta cần
phải thông suốt đường lối tu tập như thế nào đúng và như thế nào sai.
Một lần nữa
chúng tôi xin nhắc các bạn: Phải tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần rồi sau mới tu tập
đến pháp môn Tứ Niệm Xứ. Nếu không biết thì đừng nên tu tập, bởi có tu tập cũng
chỉ uổng công mà thôi.
Các bạn đừng
nghe nói pháp môn Tứ Niệm Xứ mà ham tu cao. Pháp môn này dành cho những bậc Giới
Luật nghiêm túc, dành cho những bậc tâm đã Bất Động trước các ác pháp và các cảm
thọ, chớ không phải pháp môn này bất cứ ai muốn tu tập là đều tu tập được. Nếu
các bạn tu tập mà không biết khả năng trình độ của mình thì đó là tu tập sai
pháp, xin quý vị cần lưu tâm.
Bất cứ thân
làm điều gì đều biết: Thân ăn biết thân ăn, thân ngủ biết thân ngủ, thân quét
sân biết thân quét sân, thân lặt rau biết thân lặt rau, than ngồi yên biết thân
ngồi yên và khi thân ngồi yên bất động thì biết hơi thở ra, hơi thở vô trên
thân.
Tất cả hành
động đều được xem là trên thân quán thân. Dù quán hơi thở ra, hơi thở vô cũng
chính là
trên thân
quán thân. Trên thân quán thân được như vậy là phải có sức tỉnh thức. Đây,
chúng ta hãy nghe đức Phật dạy cách thức tu tập tỉnh thức:
“Và này
các tỳ-kheo, thế nào là tỳ-kheo tĩnh giác? Ở đây, này các tỳ-kheo, tỳ-kheo tĩnh
giác khi đi tới, đi lui; tĩnh giác khi ngó tới, ngó lui; tĩnh giác khi co tay,
duỗi tay; tĩnh giác khi mang áo sanghati (tăng già lê), mang bát, mang y; tĩnh
giác khi ăn, uống, khi nhai, nếm; tĩnh giác khi đại tiện, tiểu tiện; tĩnh giác
khi đi, đứng, khi ngồi, nằm; khi thức, khi nói, khi im lặng đều tĩnh giác. Này
các tỳ-kheo, như vậy tỳ-kheo sống tĩnh giác”.
Đoạn kinh trên đây đã xác định sự tĩnh giác trên thân hành của chúng ta. Vậy Thân Hành của chúng ta là gì? Thân hành của mỗi người được chia ra làm hai phần:
1- Thân hành nội (hơi thở).
2- Thân hành ngoại (tất cả mọi sự hoạt độngcủa thân).
Thân hành hoạt động gồm có ba nơi:
1- Thân
2- Miệng
3- Ý
Như vậy, muốn tĩnh giác trên thân hành thì các bạn hãy phản tỉnh lại thân, miệng, ý của mình. Khi phản tỉnh lại thân, miệng, ý của mình là các bạn hãy chủ động điều khiển thân hành, khẩu hành và ý hành, khiến cho thân hành, khẩu hành, ý hành của các bạn không có lỗi lầm. Thân hành, Khẩu hành, Ý hành của các bạn không có lỗi lầm tức là Chánh Niệm, còn có lỗi lầm là có Tà Niệm.
Bài kinh này
đức Phật dạy chúng ta phải phản tỉnh lại thân hành, khẩu hành và ý hành, nói
chung là dạy chú ý tất cả các hành động của thân, đó là tĩnh giác. Nhưng nếu
nghe như vậy, rồi các bạn tu tập chỉ lo chú ý tập trung trên thân hành một cách
ức chế tâm cho hết niệm khởi, thì đó là một điều tu sai lệch pháp hết sức. Đó
là các bạn đã hiểu sai, biến pháp xả tâm của Phật thành pháp ức chế.
Đức Phật rất
sợ chúng ta tu tập Tứ Niệm Xứ lầm lạc thì tai hại không lường được về hậu quả.
Bởi vì pháp môn Tứ Niệm Xứ là một pháp môn độc nhất để đưa con người có đủ năng
lực làm chủ nhân quả, tức là làm chủ mọi sự hoạt động của chúng ta hằng ngày. Tức
là như lời đức Phật dạy ở đoạn kinh trên: “Tỳ-kheo phải sống
an trú chánh niệm tĩnh giác”.
Cho nên,
chúng ta hãy hiểu cho rõ ràng, để biết cách sống An Trú Chánh Niệm Tĩnh Giác mà
không sai lầm trên pháp môn Tứ niệm Xứ. Đây, xin các bạn hãy lắng nghe đức Phật
dạy tiếp:
“Vậy này
các tỳ-kheo, các thầy phải gội sạch hai pháp cơ bản về các thiện pháp, và thế
nào là hai pháp cơ bản về các thiện pháp? Chính là Giới khéo thanh tịnh và Tri
kiến chánh trực. Này các tỳ-kheo, khi nào các thầy được Giới khéo thanh tịnh và
Tri kiến chánh trực, các thầy hãy y cứ trên giới, an trú trên giới tu tập Bốn
Niệm Xứ: thân, thọ, tâm, pháp”. (Kinh Tương Ưng tập 5 và Tăng Chi Bộ kinh tập 1).
Đoạn kinh
trên dạy rất rõ ràng: “Giới luật và Tri kiến”. Bởi vậy, muốn khắc phục
những tham ưu trên thân, thọ, tâm và pháp thì phải y cứ trên Giới Luật, sống
không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, thì mới mong đẩy lui các chướng ngại
pháp trên đó (khắc phục tham ưu).
Thưa các bạn!
Trong kinh Ước Nguyện, đức Phật cũng đã nhắc nhở chúng ta rất nhiều về giới luật.
Vì giới luật rất quan trọng trên con đường tu tập giải thoát. Muốn ước nguyện kết
quả một điều gì trong sự tu tập thì giới luật phải nghiêm chỉnh.
Ở đây, tu tập
Tứ Niệm Xứ đức Phật cũng dạy chúng ta lấy Giới Luật và Tri Kiến làm nền tảng
cho sự nhiếp phục những tham ưu trên Tứ Niệm, nghĩa là muốn đẩy lui những sự khổ
đau trên thân, thọ, tâm và pháp thì giới luật phải nghiêm chỉnh. Giới luật
nghiêm chỉnh thì tri kiến thanh tịnh, tri kiến thanh tịnh thì giới luật mới
nghiêm chỉnh. Giới luật làm thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh
giới luật. Đó là nền tảng vững chắc để chúng ta tu tập Tứ Niệm Xứ mà
làm chủ bốn sự đau khổ: sanh, già, bệnh, chết của đời người.
Bởi vậy,
pháp môn Tứ Niệm Xứ là ngọn đèn soi sáng, là chỗ nương tựa vững chắc cho chúng
ta. Đây, các bạn hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ những lời đức Phật nhắc nhở ông A
Nan:
“Này
Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính
mình, chớ nương tựa một điều gì khác; dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh
pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một điều gì khác. Này Ananda, thế nào là
tỳ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không
nương tựa một điều gì khác; dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp
làm chỗ nương tựa, không nương tựa một điều gì khác?
Ở đây,
này Ananda, tỳkheo trú quán than trên thân, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh niệm,
nhiếp phục tham ưu ở đời; trú quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh
niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; trú quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tĩnh giác
chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; trú quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm,
tĩnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Như vậy, này Ananda, tỳ-kheo tự
mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa
một điều gì khác; dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa,
không nương tựa một điều gì khác”.
Các bạn có
nghe chăng? Tứ Niệm Xứ là ngọn đèn chánh pháp, là chỗ nương tựa vững chắc cho
các bạn. Như vậy, Tứ Niệm Xứ đúng là một pháp môn rất quý báu nên đức Phật lặp
đi lặp lại nhiều lần, để chúng ta đừng quên pháp môn này. Ở đoạn kinh trên, đức
Phật dạy chúng ta 2 điều:
1) Lấy
mình làm ngọn đèn, làm chỗ nương tựa vững chắc, là ý muốn dạy điều gì đây? Xin thưa
cùng các bạn! “Tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa
chính mình, không nương tựa một điều gì khác”. Để thấu rõ và xác định ý
nghĩa của câu này, chúng tôi xin lặp lại: “Tự mình là ngọn đèn cho
chính mình, tự mình nương tựa chính mình”. Đó là Tri Kiến của chúng ta
đấy các bạn ạ!
2) Dùng
chánh pháp làm ngọn đèn soi sáng, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không
nương tựa một điều gì khác, là ý Phật muốn dạy pháp môn gì đây? Xin thưa cùng các bạn! Đó là Giới
đức, Giới hạnh, Giới hành và pháp môn Tứ Niệm Xứ.
Đọc đến những
đoạn kinh trên đây, chắc các bạn đã thấu hiểu và phân biệt chánh pháp của Phật
là pháp nào, còn tà pháp của ngoại đạo là pháp nào? Nếu không có những lời xác
định chánh pháp của Phật, thì đứng trước rừng kinh sách hiện giờ, các bạn dễ
rơi vào kiến giải tưởng của ngoại đạo.
Như chúng
tôi đã nói ở đoạn trước, nếu một người không có tu tập thì không thể nào hiểu
được pháp môn Tứ Niệm Xứ, và cũng không hiểu được Giới Luật. Bởi vì trong khi
trên Tứ Niệm Xứ có ba giai đoạn tu tập, thì Giới đức, Giới hạnh và Giới
hành cũng là ba hành động đạo đức hàng ngày để tu tập Giới
Luật.
Thực hiện giới
luật là phải luôn luôn thực hiện với tri kiến, cho nên kinh dạy: “Giới
luật ở đâu là tri kiến ở đó, tri kiến ở đâu là giới luật ở đó, giới luật làm
thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh giới luật”. Nếu người tu sĩ và
người cư sĩ không thực hiện giới luật nghiêm chỉnh, còn vi phạm những lỗi nhỏ
nhặt, không thấy xấu hổ và sợ hãi thì tu Tứ Niệm Xứ chẳng bao giờ có kết quả rốt
ráo, chỉ hoài công vô ích mà thôi, uổng phí một đời tu.
Ngoại đạo
không bao giờ có pháp môn Tứ Niệm Xứ, cho nên ngoại đạo không có ai tu chứng đạo
giải thoát. Nhờ có pháp môn Tứ Niệm Xứ nên ngoại đạo không thể lừa dối phật tử,
lấy pháp môn của mình cho là pháp môn của Phật được.
Tóm lại, khi
tu hành theo Phật giáo thì không nên tu tập bất cứ một pháp môn nào khác, mà chỉ
nên tu tập Tri Kiến, Giới Luật và Tứ Niệm Xứ. Trước khi nhập diệt, đức Phật đã
di chúc: “Sau khi Ta nhập diệt, các vị tỳ-kheo hãy lấy Giới Luật và
Giáo Pháp của Ta mà làm Thầy”. Giáo pháp mà Ngài đã di chúc ở đây là pháp
môn Tứ Niệm Xứ.
Pháp môn Tứ
Niệm Xứ là pháp môn nhiếp tâm Bất Động cuối cùng của Phật giáo, vì chính người
tu tập sống được với tâm Bất Động là đã chứng đạo. Ở đây không còn tu pháp môn
nào khác nữa. Cho nên pháp môn Tứ Niệm Xứ được xem là pháp môn tu tập cuối cùng
của Phật giáo, gọi là Chánh Niệm. Nơi đây tất cả năng lực làm chủ
thân tâm sẽ được xuất hiện trên mảnh đất Bất Động. Bảy Giác Chi cũng
xuất hiện đầy đủ trên tâm Bất Động này. Vì thế, quý vị đừng vội vàng tu tập Tứ
Niệm Xứ, mà nên xét lại tâm mình đã Bất Động chưa, nếu tâm Bất Động thì mới tu
tập Tứ Niệm Xứ, còn chưa thì nên trở lại tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần.
Vì vậy, xin
quý vị đừng hiểu rằng 49 ngày đức Phật ngồi dưới cội bồ đề là tu tập Bốn Thiền,
tức là từ Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền của ngoại đạo. Sự thật,
trong gần 6 tuần đầu, đức Phật tu tập ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng
thiện pháp trong pháp môn Tứ Chánh Cần. Kế đó, hơn 7 ngày cuối cùng, đức Phật
an trú tự nhiên trên Tứ Niệm Xứ để quét sạch các tà niệm vi tế của thân tâm,
cho đến khi Bảy Giác Chi sung mãn thì Tứ Thần Túc và Tam Minh xuất hiện.
Một kết quả tâm Vô Lậu hoàn toàn.
Đến đây, chặng
đường tu hành làm chủ sinh, già, bệnh chết của đức Phật đã thành công.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét