278- 8- TÁC Ý XẢ LY 18 LOẠI TƯỞNG, TỊNH CHỈ ÂM THANH, NHẬP TAM THIỀN
(38:31) Đây
về phần Tam Thiền: “tu tập Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý.” Bây
giờ từ lâu tới giờ chúng ta phải nhớ rằng, cái hơi thở mà chúng ta khéo tác ý
đó như thế nào?
Khéo tác ý ở
trong cái Định Niệm Hơi Thở, như Phật đã dạy rất rõ ràng: “Quán ly tham tôi
hít vô, quán ly tham tôi thở ra”, đó là khéo tác ý theo hơi thở đó.
Nếu chúng ta
tác ý cái hơi thở như thế này thì nó lại kết quả nhiều hơn. Thí dụ như mình vừa
hít vô mình đã: “Quán ly tham tôi hít vô, quán ly tham tôi thở ra”, thì
hơi thở mình vừa hít vô hết, thì “quán ly tham” cũng hết. Mà mình thở ra
thì “quán ly tham hơi thở ra”, thì hơi thở ra hết thì cái “ly tham”
nó cũng theo ra hết. Thì như vậy nó có kết quả rất lớn.
Còn nếu mà
mình cũng, bởi vì ở đây Phật nói khéo tác ý trong hơi thở mà, Định Niệm Hơi Thở
khéo tác ý mà, mình tác ý theo cái hơi thở. Còn mình tác ý không theo hơi thở,
nghĩa là mình nói “Quán ly tham tôi hít vô, quán ly tham tôi thở ra”
nhưng mình không có thở ra mà mình hít vô. Hoặc là mình thở ra mình nói “Quán
ly tham tôi hít vô” mà trong lúc đó mình thở ra, thì như vậy là cái pháp hướng
của mình nó đi ngược với cái hơi thở của mình thì nó không có kết quả.
Mà cái pháp
háp hướng của mình nó đi một lượt với cái hơi thở của mình, thì nó kết quả, rất
là kết quả. Nó làm cho mình sức tỉnh cao hơn, và sức tỉnh cao hơn thì sức bám
chặt cao hơn, nó làm cho mình bám chặt mà phá âm thanh dễ hơn.
Đó là cái lối
tu tập Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý của Tam Thiền, chỉ có cái hơi thở và cái
pháp hướng phải đi với nhau, phải đi một lượt với nhau. Khi mà ý mình nhắc cái
câu pháp hướng đó thì hơi thở đang hít vô, và cái ý bảo nó rằng “Quán ly
tham tôi hít vô”. Thì theo cái ngôn từ và lời nói đó, thì cũng vừa quán, vừa
nói, mà hơi thở cũng vừa hít vô. Hơi thở dứt thì cái quán - nói đó cũng dứt.
(40:31) Rồi
quán nói hơi thở ra thì nó cũng vậy, hơi thở dứt thì cái quán nói cũng vừa dứt,
hai cái nó đồng song nhau một lượt.
Cho nên người
mà dụng cái pháp hướng mà tu tập về Định Niệm Hơi Thở để xả ly, hoặc là để câu
hữu với một cái pháp nào đó, mà đạt được cái mục đích mình muốn đạt thì phải
dùng cái pháp hướng ngắn gọn. Vì hơi thở chúng ta không thể chậm và dài lâu được,
cho nên chúng ta phải vừa, cái pháp hướng đó phải vừa với cái hơi thở của mình,
thì có kết quả nhanh chóng và mau nhất.
“Hai,
nương hơi thở hướng tâm xả ly sáu loại tưởng: sắc, thinh, hương…”
Bây giờ nó
có những cái loại tưởng nào đó, thì lúc bấy giờ chúng ta cần phải bám chặt cái
hơi thở hơn.
Chớ còn lơ
mơ không bám chặt hơi thở thì các cái loại hỷ tưởng này nó làm mất hơi thở đi,
nó thay thế vào những cái trạng thái xúc lạc, trạng thái thinh tưởng, sắc tưởng,
hương tưởng, vị tưởng, nó làm cho tâm chúng ta mê mờ và thích thú bám vào những
cái trạng thái tưởng đó, rồi vui thích ở trong cái trạng thái đó. Nó cám dỗ
chúng ta, nó làm chúng ta vui mừng, thích thú, ham thích cái trạng thái đó.
(41:45) Cho
nên ở đây thì chúng ta phải nương vào cái hơi thở, phải biết cho rõ hơi thở, để
trú vào cái hơi thở mà xả các loại tưởng đó. Và đồng thời dùng pháp hướng để xả
các cái loại tưởng đó, thì nó mới hết được.
Do cái chỗ
chúng ta nỗ lực mà chúng ta tu tập như vậy, thì chúng ta mới ly được các cái loại
tưởng:
“Rồi
dùng pháp hướng xả ly 18 cái loại tưởng.”
Thì các cái
pháp hướng mà xả ly 18 loại tưởng này, hồi nãy ở trên thì xả ly có sáu cái loại
tưởng thôi, nghĩa là sáu cái loại tưởng đầu tiên là sáu cái loại tưởng thô, kế
đó nó có những cái vi tế, cho nên cộng nó chung lại, nó là mười tám cái loại tưởng
lận.
Cho nên đến
cái giai đoạn vi tế này thì chúng ta nỗ lực, cũng tiếp tục ở trên cái pháp hướng,
dùng cái pháp hướng như cũ mà chúng ta xả. Nhưng mà trạng thái tâm của chúng ta
bây giờ rất tỉnh hơn, nó không còn mê mờ như trước nữa.
Đó là cái
giai đoạn ba dùng cái pháp hướng xả ly mười tám loại tưởng.
Giai đoạn tư
thì hướng tâm tịnh chỉ âm thanh. Lúc bấy giờ chúng ta xả ly được mười tám cái
loại tưởng rồi chúng ta mới xả ly được âm thanh, chúng ta mới xả âm thanh, tiếp
tục xả âm thanh.
Chớ còn chưa
dùng pháp hướng mà xả ly mười tám loại tưởng này, mà tịnh chỉ âm thanh cũng rất
khó chớ không phải dễ. Mà không vô được nữa, nó cứ hết nghe rồi bung ra, hết
nghe bung ra, cho nên mình phải xả mười tám loại tưởng rồi, thì mình phá âm
thanh mới dễ, mình phá âm thanh mới được.
Mà khi phá
âm thanh được thì chúng ta mới tỉnh thức trong giấc ngủ rất dễ. Cái sức này bây
giờ nó mới có tỉnh thức được, chớ còn không thì nó khó lắm chứ không phải dễ
đâu.
Nó không ngủ,
nó thức thì nó lại làm cho cơ thể chúng ta bệnh tật, làm cho cơ thể chúng ta mệt
nhọc, mà nó ngủ thì nó chiêm bao liên tục. Do cái sự chiêm bao mộng tưởng thì
chúng ta đâu có xả ly hết mười tám loại tưởng được. Vì vậy mà bắt buộc chúng ta
phải tu tập cái tỉnh thức trong những cái giấc ngủ.
Mà không còn
giấc ngủ nữa thì không còn chiêm bao, mà còn giấc ngủ thì bị rơi vào chiêm bao.
Bởi vì lúc này cái ý thức của chúng ta không làm việc nữa, cho nên vọng tưởng
không đi vào cái ngõ đó được mà phải đi vào trong cái loại tưởng.
(44:11) Khi
mà dùng nó xong rồi, thì nếu mà phá được cái giấc ngủ rồi, thì bắt đầu chúng ta
mới dùng tịnh chỉ âm thanh. Nghĩa là bây giờ chúng ta mới ra lệnh cho âm thanh
ngưng để mà chúng ta không còn nghe nữa.
Bắt đầu
chúng ta hướng tâm: “Mười tám loại tưởng phải xả ly khỏi cái tưởng, và âm
thanh phải vắng bặt, không có được tác động vô đây!” Thì do đó chúng
ta hướng, chúng ta tịnh chỉ âm thanh, chúng ta phá âm thanh.
Nhưng mà trước
khi phá âm thanh thì chúng ta phải hướng tâm nhắc phá âm thanh, rồi sau đó mới
tịnh chỉ âm thanh. Chớ còn nếu mà chưa hướng tâm, chưa tu tập phá âm thanh, thì
chúng ta chưa có quen, cho nên chúng ta nằm không có chặt ở trên cái tụ điểm,
chỗ cái hơi thở, do đó chúng ta dễ bị bung ra, bung vô.
Do thời gian
tập luyện thì cái đạo lực nó có tăng lên nữa, sau khi mà âm thanh vắng bặt được,
về cái pháp hướng âm thanh mà vắng bặt được rồi, thì chúng ta mới tịnh chỉ âm
thanh, tức là ra lệnh: “Âm thanh ngưng, mười tám loại tưởng ngưng!” thì
mộng tưởng không còn nữa. Thì do đó, khi đó bây giờ chúng ta hoàn toàn nhập Tam
Thiền.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét